Trang Thông tin điện tử

xã Cồn Thoi - Huyện Kim Sơn

Thứ năm, 19/09/2024

Bài: Tuyên truyền bình đảng giới

Thứ năm, 08/06/2023

Tháng 1: 12/01/2021; 20/01/2021  và 12/01/2022; 20/01/2022

 

Bài tuyên truyền về Bình đẳng giới

 

1.Vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới.

Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Bình đẳng giới là nam giới và nữ giới cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực, bình đẳng cho thù lao trong công việc, bình đẳng trong việc hưởng thụ các thành quả, bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội (bình đẳng trong tiếng nói). Thế giới đã trải qua hơn 100 năm của chặng đường bình đẳng giới. Nhìn lại những thành tựu và những tồn tại hiện nay của chặng đường đó, cả nhân loại phải thừa nhận thành quả của bình đẳng giới đã góp phần rất quan trọng vào sự tiến bộ chung của thế giới. Bình đẳng giới là cần thiết và có thể thực hiện được. ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và được đánh giá là một động lực và mục tiêu phát triển quốc gia. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ thể hóa trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Mặc dù vậy, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam còn đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và thực hiện bình đẳng giới là yếu tố quan trọng. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và thực hiện bình đẳng giới thuộc về tất cả các thể chế trong xã hội, trong đó gia đình đóng vai trò quan trọng. Gia đình là nơi định hình các quan hệ giới, truyền tải những chuẩn mực về giới và quyết định những cơ hội cho các thành viên gia đình. Gia đình là nơi đưa ra các quyết định cơ bản như: Số con, việc nuôi dạy con, phân bố thời gian và nguồn lực sản xuất, tiêu dùng và đầu tư cho tương lai… Thực tế cho thấy, gia đình có thể làm trầm trọng hơn định kiến giới hoặc có thể làm dịu đi sự phân biệt giới. Có thể nói, gia đình đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới.

 

Ngày 15/01/2021; 25/01/2021 và 15/01/2022; 25/01/2022:

 

Bài tuyên truyền phòng, chấm xâm hại trẻ em

 

Việt Nam là quốc gia sớm nhất tại khu vực châu Á đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực ngày 02/9/1990 và các nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em, khiêu dâm trẻ em. Như vậy có nghĩa là Việt Nam đã thừa nhận rất nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em (XHTDTE); bảo vệ trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục, bị bóc lột tình dục, bị mua bán hoặc bị sử dụng vào mục đích khiêu dâm theo quy định của luật pháp quốc tế.

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm XHTDTE có diễn biến phức tạp, xảy ra nhiều vụ trọng án đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm XHTDTE không chỉ diễn ra ở nơi công cộng mà còn diễn ra trong gia đình, nơi được coi là tổ ấm của các em. Tội phạm XHTDTE để lại những hậu quả, tổn hại lâu dài, khó khắc phục cho chính các em và cộng đồng.

Đứng trước thực tế đó, Cục Cảnh sát hình sự (thuộc Bộ Công an) và Tổ chức UNODC (Cơ quan Phòng, chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc) đã biên soạn tài liệu “Lực lượng cảnh sát với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em – Nhận thức và ứng phó”. Trong tài liệu này, một phần quan trọng là hướng dẫn trẻ em về kỹ năng phòng chống hành vi xâm hại tình dục, cụ thể như sau:

1. Kỹ năng nhận diện tội phạm, tự bảo vệ mình

Một là, nhận biết và tìm cách di chuyển khỏi nơi có không gian vắng vẻ, biệt lập khi chỉ có mình với người khác giới. Những nơi đó có thể hiểu là trong một căn nhà, căn phòng vắng, biệt lập; trong cầu thang máy của chung cư cao tầng; ở nơi cách đồng, nương rẫy vắng, cánh rừng vắng, trên một quả đồi vắng,…mà xét thấy khó có thể kêu gọi sự trợ giúp của người khác.

Hai là, có thái độ cương quyết trước hành vi, lời nói sàm sỡ, tán tỉnh, gạ gẫm, cử chỉ đụng chạm. Có thể nhìn thẳng vào mặt đối tượng và nói to: “Bác/chú/anh…dừng lại. có camera kia kìa”…Tìm cách thoát khỏi hoặc la hét hoặc kêu gọi sự chú ý, giúp đỡ của người khác nếu sau khi có thái độ, lời nói cương quyết mà thấy đối tượng vẫn có thể tấn công tình dục, quấy rối tình dục…Nếu trong thang máy mà bị đối tượng có ý định tấn công cũng hét to “có camera kìa” mặc dù mình không biết có hay không, hoặc nhấn vào nút chuông khẩn cấp để được bên ngoài trợ giúp, “làm nguội” dục vọng và cường độ tấn công của đối tượng.

Ba là, tự mình phòng ngừa, giúp bạn bè cùng phòng ngừa, cảnh giác, cân nhắc trước hiện tượng “lòng tốt” của người khác mà chưa rõ nguyên nhân (tặng quà, rủ đi ăn, đi hát, đi chơi, mời lên xe để chở về nhà, chở đến trường,…)

Bốn là, biết phân biệt cử chỉ thân mật, đúng mực với cử chỉ sàm sỡ, quấy rối hoặc lợi dụng để xâm hại, quấy rối tình dục,…

2. Kỹ năng nhận biết nguy cơ

Nguy cơ (báo động) từ cái nhìn: Đối tượng nhìn chằm chằm vào mình, rồi nhìn dáo dác xung quanh xem có ai để ý không, di chuyển khoảng cách đến gần, nhìn vào vùng nhạy cảm,..v.v…

Nguy cơ (báo động) từ lời nói: Buông lời ngọt nhạt, lả lơi, ỡm ờ kiểu thăm dò, nói về vùng kín, phim ảnh tình dục,…

Nguy cơ (báo động) từ sự đụng chạm: Vuốt tóc, xoa má, xoa và bóp vùng gáy, vùng vai hoặc tỏ ra vô tình đụng chạm vào các phần nhạy cảm (như ngực, bụng, đùi, vùng kín, mông,…)

Nguy cơ (báo động) từ sự bắt cóc, cưỡng ép: Đưa đến nơi hoang vắng như bãi đất trống, nghĩa địa, nhà bỏ hoang,…

Nguy cơ (báo động) từ cái ôm: Ôm lâu, ôm ghì, vừa ôm vừa sờ soạng,…

3. Những điều trẻ em cần biết

Không dễ dãi kết bạn, làm quen với người lạ, người mới quen chưa rõ nhân thân lai lịch, người quen trên mạng; không dễ nhận quà, nhận lời mời của những người này. Chia sẻ, tham vấn với bạn bè, người thân trước các hiện tượng lạ, các hành vi làm mình khó chịu,..

Không may nếu trở thành nạn nhân bị xâm hại tình dục (hoặc biết người khác như bạn bè bị xâm hại) thì nhanh chóng, mạnh dạn tố giác, tố cáo hoặc nhờ sự trợ giúp của người thân, nhà trường, tổ chức đoàn thể. Không chấp nhận sự dàn xếp, thương lượng, xử lý nội bộ với đối tượng xâm hại tình dục.

Giữ lại và giao các đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bị xâm hại cho cơ quan chức năng (như quần áo, quà tặng, dữ liệu điện tử,…)

Luôn nhớ rằng khi bị xâm hại thì các em là nạn nhân của tội phạm, các em không phải là nguồn cơn của tội lỗi hay phải chịu trách nhiệm cho hành vi của kẻ xâm hại. Các cơ quan, tổ chức luôn đứng về phía các em, có trách nhiệm bảo vệ, bảo mật các thông tin liên quan đến nhân thân và sự việc của các em.

Các bậc phụ huynh, thầy cô giáo, các cán bộ đoàn thể,…nên nghiên cứu, phổ biến các kiến thức, kỹ năng kể trên rộng rãi đến con em trong gia đình, học sinh trong nhà trường và trẻ em địa phương để các em có thêm nền tảng tự bảo vệ chính mình trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay.

 

Tháng 2: 5/2/2021 và 10/2/2022

 

Bài tuyên truyền về Bình đẳng giới

 

  1. Vai trò của gia đình trong nhận thức về bình đẳng giới

Gia đình là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống con người và truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến thức và kỹ năng về giới. Do vậy, nhận thức về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước trong gia đình như ông bà, cha mẹ… tác động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ kế tiếp. Trong gia đình, con người học những bài học đầu tiên về tôn ti trật tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai học cách quyết đoán và thống trị, con gái học sự phục tùng. Gia đình chính là nơi tạo ra tôn ti trật tự. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng giới sẽ tạo ra những tôn ti trật tự trong đó làm giảm vị thế của nữ giới, dẫn đến bất bình đẳng giới ngay trong gia đình. Trong gia đình truyền thống, ông bà, cha mẹ truyền dạy cho cháu con những nguyên mẫu về các quan niệm và hành vi mong đợi được cho là thích hợp đối với mỗi giới và các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và nữ giới. Chẳng hạn, quan niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới là dịu dàng, nam giới là mạnh mẽ, quyết đoán. Do vậy, phụ nữ được quan niệm là gắn liền với vai trò của người mẹ, người vợ, người nội trợ, là người phụ thuộc không quan tâm đến việc họ có thu nhập cao hay thấp; nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tấm gương đạo đức, là chỗ dựa về tinh thần của phụ nữ và trẻ em, là người chủ gia đình, đại diện cho gia đình trong các quan hệ xã hội và cộng đồng. Những đặc tính trên của nữ giới hay nam giới thực chất là do xã hội gán cho hoặc mong đợi các cá nhân nam và nữ thực hiện. Quan niệm trên chính là những định kiến giới đã tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những định kiến giới đó đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại phổ biến trong xã hội. Khi những định kiến giới tồn tại ở những người trực tiếp thường xuyên nuôi dạy trẻ như cha mẹ, ông bà… thì những quan niệm đó sẽ được thể hiện cụ thể thông qua các hành vi chăm sóc, giáo dục trẻ như: Trẻ em trai hay gái nên làm hoặc không nên làm gì, định hướng hoặc cho phép trẻ em trai và trẻ em gái được chơi các trò chơi theo giới, phân công lao động theo giới trong gia đình, đầu tư cho trẻ em trai và trẻ em gái khác nhau… Từ đó cho thấy, trẻ em có được đặc tính về giới mà đặc tính này sẽ xác định một loạt các hoạt động được xã hội chấp nhận cho nam và nữ cũng như mối quan hệ giữa chúng là từ gia đình. Do vậy, nhận thức của các thế hệ đi trước trong gia đình về giới và bình đẳng giới không đúng đắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của các thế hệ sau. Điều này sẽ làm chậm mục tiêu bình đẳng giới. Ngược lại, khi các thế hệ đi trước nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới, xóa bỏ định kiến giới thì họ sẽ truyền dạy cho các thế hệ kế tiếp những nhận thức đúng đắn đó. Đồng thời, nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước sẽ quyết định hành vi của họ trong việc chăm sóc, giáo dục, đầu tư… cho thế hệ tương lai. Sự quan tâm, chăm sóc, tình yêu thương của cha mẹ, ông bà dành cho trẻ em trai và trẻ em gái là như nhau. Con trai, con gái đều được tôn trọng như nhau. Sự đầu tư của cha mẹ, ông bà trong việc phát triển đối với trẻ con trai, con gái phải trên cơ sở năng lực, sở thích và cơ hội của mỗi người con mà không dựa trên giới tính. Sự phân công lao động trong gia đình phải trên cơ sở khả năng của mỗi người con mà không phụ thuộc vào giới tính… Hành động cụ thể trên sẽ tác động tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của thế hệ kế tiếp. Điều đó góp phần rút ngắn khoảng cách giới, tiến tới bình đẳng giới.

Vai trò tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới của gia đình không chỉ thể hiện trong việc truyền dạy của ông bà, cha mẹ và các thành viên khác của gia đình mà còn thể hiện trong việc làm gương của cha mẹ, ông bà và các thành viên khác trong gia đình. Cách đối xử của cha mẹ, ông bà với nhau phải thể hiện sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, bởi hành vi của cha mẹ, ông bà sẽ là nguyên mẫu cho con cháu. Khi trong gia đình cha mẹ, ông bà tôn trọng nhau, chia sẻ công việc gia đình, cùng nhau bàn bạc và giải quyết các vấn đề… sẽ là tấm gương sáng cho con cháu học tập. Ngược lại, các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình trên cơ sở giới, hình phạt cho các hành vi không đúng đắn, các mẫu người đàn ông và phụ nữ trong gia đình… sẽ tác động tiêu cực đến hành vi và nhận thức về bình đẳng giới đối với thế hệ trẻ.

 Như vậy, để có được bình đẳng giới, trước hết trong gia đình cha mẹ, ông bà cần phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới vì chính họ là tác nhân quan trọng nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. Khi các thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới thì trẻ em trai và trẻ em gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người lớn tuổi đối xử bình đẳng. Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa cha mẹ, ông bà; được hưởng quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với nhau. Gia đình mà trong đó nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau sẽ tiếp tục là môi trường tuyên truyền, giáo dục hiệu quả nhất về bình đẳng giới

 

Ngày 15/02/2021; 22/02/2021 và 15/02/2022; 22/02/2022

 

Bài tuyên truyền về kiến thức, kỹ năng

phòng chống bạo hành, xâm hại trẻ em

 

1. Thế nào là bạo hành?

Là hành động và lời nói có tính chất vũ phu, bạo ngược, thậm chí là độc ác như lăng mạ, đay nghiến, xỉ vả, xúc phạm, chà đạp, đánh đập, tra tấn… bất chấp pháp luật, đạo lý, làm tổn thương thể xác và tinh thần của người khác.

2. Bạo lực đối với trẻ em là các hành vi sau:

- Lăng nhục, chửi mắng, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý, gây tổn thương về tinh thần, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

- Hành hạ, ngược đải, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng của trẻ em.

- Đối xử tồi tệ, bắt nhịn ăn, nhịn uống,  bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân, bắt làm những việc trái đạo đức xã hội.

- Cưỡng ép lao động quá sức, quá thời gian quy định, làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại và những công việc trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ và dễ bị lợi dụng hoạt động mại dâm.

- Để trẻ chứng kiến bạo lực gia đình, học đường …

3. Hậu quả của hành vi bạo lực:

- Để lại hậu quả nặng nề cho trẻ em

- Về thể chất: Đau đớn, thương tích, ảnh hưởng xấu đến phát triển cơ thể.

- Về trí tuệ: Học hành giảm sút, chậm phát triển trí tuệ.

- Về hành vi: Thụ động, ngại giao tiếp, rối loạn hành vi, hung hăng, cư xử bạo lực với ngưới khác

- Về tâm lý: Mặc cảm, tự ti, mất lòng tin, thờ ơ, né tránh, gây rối nhiễu tâm lý.

- Làm xói mòn đạo đức gia đình và xã hội, gây bất ổn hoặc tan vỡ gia đình, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn của cộng đồng và xã hội. 

4. Một số dấu hiệu  hoặc biểu hiện của trẻ em bị bạo lực

* Trên cơ thể:

- Vết thâm tím, trầy xước; vết thương xuất hiện ỡ những chỗ thường khó có thương tích khi bị ngã; vết thương đang lên da non, vết sẹo, vết trầy xiết…

- Vết bỏng do thuốc lá hoặc bàn là, nước sôi, xuất hiện ở nhiều chỗ trên cơ thể.

- Vết gãy, vỡ rạn xương…

* Về tâm lý, thái độ và hành vi:

- Trẻ sợ hãi, hoãng loạn, né tránh tiếp xúc, có hành vi tự huỷ hoại mình, kết quả học tập sút kém.

5. Thông báo hoặc tố giác các trường hợp trẻ em bị bạo lực:

- Vì lương tâm và trách nhiệm bảo vệ tre em, mọi cá nhân, gia đình, trẻ em và cộng đồng hảy thông báo, tố giác cho người/cơ quan có trách nhiệm nếu nghi ngờ, phát hiện, chứng kiến trường hợp trẻ em bị bạo lực.

- Cần thông báo, tố giác kịp thời, trung thực, chính xác các thông tin có liên quan đến trẻ em bị bạo lực và đối tượng có hành vi bạo lực trẻ em.

- Không tố giác sai sự thật về trường hợp trẻ em bị bạo lực để làm hại người khác.

II/ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM

1. Thế nào là xâm hại tình dục trẻ em

Xâm hại tình dục trẻ em là sử dụng trẻ em để thoả mãn nhu cầu tình dục của người lớn hơn. Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm lạm dụng tình dục trẻ em và bóc lột tình dục trẻ em.

2. Đối tượng xâm hại

- Người quen thân thiết: ông, bố dượng, chú, bác, anh em, hàng xóm, ….

- Người không quen biết.

- Thành phần: nam, nữ mọi lứa tuổi.

3. Các mức độ xâm hại tình dục

- Động chạm, sờ mó vào cơ thể hay những vùng nhạy cảm của chúng ta

- Phô trương làm thỏa mãn.

- Quan hệ.

- Bị xâm hại tình dục nghiêm trọng.

4. Dấu hiệu trẻ bị xâm hại tình dục

- Thái độ sợ sệt, ngượng ngùng mỗi khi giáp mặt đối tượng.

- Hay bị giật mình.

- Thoáng vui, thoáng buồn.

- Khóc lóc, gặp ác mộng.

- Trẻ sống thu mình lại, không muốn ra ngoài, không muốn trò chuyện với mọi người…

- Nếu bị xâm hại tình dục nghiêm trọng, trẻ có thể bị sốc, có những vết cào, bầm tím, vùng kín bị sưng, chảy máu, hay có dịch nhầy.

5. Tác hại của việc xâm hại tình dục

- Làm tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, tâm lý, sức khoẻ của trẻ.

- Gây hoang mang, lo lắng cho gia đình và xã hội.

- Làm ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em, của dân tộc.

- Làm gia tăng tệ nạn mại dâm, tệ nạn buôn bán phụ nữ, tăng sự lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây qua đường tình dục.

- Gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta.

6. Các quy tắc phòng chống nguy cơ bị xâm hại:

- Không đi một mình ở nơi tối tăm, vắng vẻ.

- Không ở trong phòng kín một mình với người lạ. Nếu đó là người quen của gia đình thì cửa phòng phải luôn được mở.

- Không nhận tiền, quà hoặc nhận sự giúp đỡ đặc biệt của người khác mà không rõ lý do.

- Không đi nhờ xe người lạ, hoặc sử dụng ăn uống của người lạ đưa .

- Không để cho người lạ đến gần đến mức họ có thể chạm tay vào người mình.

- Không để người lạ vào nhà, nhất là khi trong nhà chỉ có một mình.

- Không nói chuyện điện thọai với người lạ khi đang ở nhà một mình.

- Không cho ai có quyền tùy tiện động chạm, sờ mó vào chỗ kín của cơ thể hoặc bất kỳ hành động thô lỗ nào với các em.

- Không ăn mặc hở hang, không gần gũi quá mức với người lạ, kể cả những người thân họ hàng (trừ Bố mẹ, ông Bà, anh chị em ruột của mình) .

- Tin vào linh tính của bản thân khi thấy điều gì không bình thường cần cảnh giác và chủ động nghĩ cách phòng tránh để thoát ra khỏi tình huống đó.

7. Phòng tránh các nguy cơ bị xâm hại tình dục

- Nhận dạng những hành vi xấu như: ép trẻ uống bia, rượu, hút thuốc, sờ mó, vuốt ve bộ phận sinh dục của trẻ, rủ trẻ vào chỗ tối…

- Không nói chuyện với người lạ, nên giả vờ như không nghe thấy và đi nhanh sang nơi khác khi người lạ bắt chuyện.

- Có thể nói dối để thoát khỏi nguy hiểm.

- Kiên quyết phản đối, có thể la hét, kêu khóc, cắn và kêu cứu hoặc tìm cách để chạy tới nơi đông người.

- Gọi đến số điện thoại của cha mẹ, người thân hoặc điện thoại khẩn cấp như 111, 115, 113…

8. Những biện pháp giúp các em tránh nguy cơ bị động chạm không an toàn, bị xâm hại:

Bố mẹ Bắt đầu trò chuyện về giới tính khi trẻ 2 tuổi. Hãy cho trẻ biết rằng, cơ thể trẻ thuộc về chính bé. Không ai có quyền làm bất cứ điều gì với cơ thể bé mà khiến bé khó chịu. Nếu ai cố tình, trẻ cần biết nói “Không”.

- Khi tắm cho trẻ, hãy nói cho trẻ biết rằng, không một ai có thể được nhìn hay chạm vào vùng kín của con, trừ một số người như bác sĩ, y tá hay bố hoặc mẹ. Tuy nhiên, bác sĩ y tá cần phải mặc đồng phục và đang trong giờ khám chữa bệnh, phải giải thích được cho con là họ cần chạm vào để làm gì và cần có sự đồng ý của con.

- Cha mẹ hãy giải thích cho trẻ về sự khác biệt giữa những bí mật "tốt" và "xấu". Những câu như “Đây là bí mật của riêng hai chú cháu mình" thường của những kẻ lạm dụng khiến trẻ con cảm thấy lo lắng và sợ không dám kể cho ai khác nghe. Những bí mật "tốt" có thể là món quà hay bữa tiệc. Những bí mật "xấu" là cái khiến con cảm thấy buồn, lo lắng, sợ hãi và con cần nói ra. Hãy nói với con khi nào bé cảm thấy buồn, lo lắng, sợ hãi, bé nên lên tiếng với người bé tin tưởng, có thể nói với bố mẹ, hay chị gái, cô giáo...

- Đứng ngay dậy.

- Nhìn thẳng vào kẻ định sàm sỡ.

- Lùi ra xa đủ để không cho họ với tay được đến mình.

- Nói to/hét to và kiên quyết: Không! Hãy dừng lại! Tôi không cho phép! Tôi không muốn! Nếu không dừng lại, tôi sẽ mách với mọi người …

(Có thể nhắc đi nhắc lại).

- Bỏ chạy đến chỗ an toàn nếu họ tìm cách sờ nắn hoặc ôm ấp mình và kêu to cầu cứu sự giúp đỡ của mọi người xung quanh.

- Kể ngay với cha mẹ hoặc những người tin cậy. Nếu người thứ nhất chưa tin lời em thì kể với người thứ hai, nếu người thứ hai chưa tin thì kể cho người thứ ba,… cho đến lúc có người tin và giúp đỡ. Cha mẹ, người lớn trong gia đình, thầy cô giáo, bạn bè, trụ sở công an gần nhất,… hay bất cứ người nào mà các em tin tưởng là người các em cần tìm và nhờ họ giúp đỡ, bảo vệ.

- Nếu em bị sàm sỡ, xâm hại, hãy kể ngay với cha mẹ, người thân và cùng người lớn đến cơ sở y tế để khám.

- Các em không nên phớt lờ, chối bỏ, né tránh vấn đề.

9. Cách xử lý khi bị xâm hại tình dục

- Cố gắng gần gũi con, khuyến khích con cởi mở tâm trạng.

- Tùy vào mức độ của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, có thể nói chuyện với con về sự việc đã xảy ra ở mức độ cụ thể nhất định.

- Không để cho con có cảm giác phải che giấu, thu mình vào một thế giới hoang mang của riêng mình.

- Đưa trẻ đi khám để xác định mức độ và điều trị tổn thương thực tế.

- Sử dụng các liệu pháp tâm lý để chữa trị chấn thương tâm lý cho trẻ.

 

Tháng 3: 08/3/2021

 

Bài tuyên truyền kỷ niệm 111 năm ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3/1910 - 8/3/2021);

kỷ niệm 1981 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng

và 2005 năm ngày sinh Hai Bà Trưng (01/8/14-01/8/2021)

 

Phụ nữ Việt Nam thời nào cũng vậy – Luôn mang trong mình những phẩm chất cao quí mà Bác Hồ đã từng trao tặng “ Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”. Trải qua năm tháng xây dựng và trưởng thành, phụ nữ Việt Nam luôn phát huy truyền thống, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước; ở cương vị nào, phụ nữ cũng phát huy được vai trò, sức mạnh, sự khéo léo vốn có của mình. Họ là những người chống giặc ngoại xâm kiên cường bất khuất, họ là những người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh, họ là những người gìn giữ giống nòi và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, họ là những người sản sinh ra những thế hệ anh hùng của một dân tộc anh hùng. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

Năm nay, một mùa tháng ba nữa lại về, hòa trong không khí vui tươi, phấn khởi còn đọng lại của Xuân Mậu Tuất 2018, chúng ta hãy cùng ngược dòng lịch sử để tìm về nguồn gốc của ngày lễ 8/3. Vào cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản ở Mỹ đã phát triển một cách mạnh mẽ, nền công nghiệp đã thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em vào các nhà máy, xí nghiệp, nhưng bọn chủ nghĩa tư bản trả lương cho họ rất rẻ mạt. Căm phẫn trước sự bất công đó, ngày 8 tháng 3 năm 1899, nữ công nhân ở Mỹ đã đứng lên đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đó là khởi nguồn cho các phong trào đấu tranh mạnh mẽ của phụ nữ lao động trên toàn thế giới. Tại Đại hội phụ nữ Quốc tế lần thứ 2 họp tại Cô-pen-ha-ghen (Thủ đô Đan Mạnh) năm 1910 đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày “Quốc tế phụ nữ”. Từ đó ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày hội truyền thống của phụ nữ toàn thế giới đoàn kết, đấu tranh để tự giải phóng và phấn đấu thực hiện mục tiêu: Bình đẳng-Phát triển-Hòa bình.

Với Việt Nam, lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước  đã ghi nhận rất nhiều những chiến công oanh liệt, chói sáng của những người con gái dòng giống lạc hồng. Sử sách ghi lại vào mùa xuân năm Canh Tý (40CN), bà Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị con gái lạc tướng huyện Mê Linh thuộc dòng dõi Hùng Vương đã phát động cuộc khởi nghĩa của nhân dân Âu Lạc toàn diện, rộng khắp để chống lại thế lực phong kiến phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa ấy đã thu hút rất nhiều các vị nữ tướng, nữ binh tham gia trong hàng ngũ đội quân của Hai Bà, đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tạo thành sức mạnh như vũ bão đánh tan giặc Hán, giải phóng hoàn toàn lãnh thổ, hai bà lên làm vua và đóng đô ở Mê Linh.

 Chiến thắng Mê Linh là nốt son đánh dấu mốc quan trọng về vai trò người phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, người phất cờ khởi nghĩa và xưng vương là phụ nữ, đã lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống nhất và tự chủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chấm dứt giai đoạn thống trị của phong kiến phương Bắc lần thứ nhất kéo dài tới 246 năm. Nhân kỷ niệm 1978 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và đặc biệt là 2002 năm ngày sinh của Hai Bà, xin mượn một đoạn thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca để kể về cuộc khởi nghĩa năm nào:

“Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân

Ngàn tây nổi áng phong trần

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

Hồng quần nhẹ bước chinh yên

 Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành…”

Tiếp bước truyền thống của những trang sử vàng, phụ nữ Việt Nam đã có biết bao tấm gương sáng ngời với những phẩm chất cao quý về lòng trung thành với Tổ quốc, về tinh thần hy sinh dũng cảm, họ đã khẳng định rằng, phụ nữ Việt Nam mềm nhưng không yếu. Họ đã sát cánh với phái mạnh để đem lại những ngày huy hoàng của lịch sử dân tộc trong đó có những tấm gương đã hóa thành những tượng đài bất tử trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Đó là Mẹ Suốt, là các chị Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Định và biết bao nữ anh hùng, liệt sỹ đã để lại tuổi thanh xuân trong mưa bom bão đạn, để tâm hồn thơm thảo hóa thành nắng gió hòa bình của ngày hôm nay. Tên tuổi của các chị mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc và luôn gắn liền với lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam.

Có thể nói trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã lập nên bao kì tích, góp phần quan trọng trong sự nghiệp chấn hưng, trường tồn dân tộc. Chúng ta có quyền tự hào về những người con gái kiệt xuất viết nên trang sử vàng cho non sông gấm vóc.Thực tế lịch sử đã chứng minh, trên mọi lĩnh vực hoạt động từ miền ngược đến miền xuôi, từ nam chí bắc, các tầng lớp phụ nữ, các lứa tuổi, các dân tộc luôn khẳng định vai trò của mình. Các mẹ, các chị là những chiến sĩ kiên cường chống giặc ngoại xâm, là người lãnh đạo cần cù, thông minh và sáng tạo, Là người chủ gia đình diụ hiền, đảm đang, trung hậu, là người sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.

 Các chị đã không quản ngại khó khăn, vừa làm tốt thiên chức làm mẹ, làm vợ trong gia đình, đồng thời luôn phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành chức trách, nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ chính trị được giao; tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết của Đảng.

Hòa trong không khí tinh thần ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và tinh thần khởi nghĩa Hai Bà Trưng quật khởi,phụ nữ xã Định Hóa tiếp tục phát huy truyền thống vốn có, quyết tâm phấn đấu, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, để phát huy tính chủ động, bản lĩnh của người cán bộ Kiểm sát; Đặc biệt là tiếp tục củng cố, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống và công tác; dẹp bỏ tâm lý tự ti, an phận để nổ lực phấn đấu, học tập, tự nâng cao trình độ, tự khẳng định mình trong công tác và gia đình, làm tròn vai trò người phụ nữ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, chủ động, tích cực trên mọi phương diện, thể hiện sự bình đẳng của bản thân về đóng góp cũng như thụ hưởng, tích luỹ kiến thức, năng lực, để đi đầu trong các phong trào thi đua, gương mẫu và kỷ cương trong công việc, góp phần xây dựng, phát triển truyền thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu bình đẳng của phụ nữ trong quá trình hội nhập và phát triển, xứng đáng là phụ nữ Việt Nam “Năng động, sáng tạo, trung hậu, đảm đang”“Giỏi việc trường, đảm việc nhà”.

 Kính chúc các chị em đón một ngày 8/3 với thật nhiều sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt; Luôn vui tươi, xinh đẹp, trẻ khỏe, yêu đời. Hãy sống hết mình, cháy hết mình; biết yêu những gì mình đang có, hoàn thiện những gì mình chưa có, khẳng định mình trong cuộc sống bằng lòng chân thành, vị tha, thủy chung, trí tuệ và yêu thương...

 

Ngày 08/03/2022:

 

Bài tuyên truyền lễ kỷ niệm Ngày quốc tế phụ nữ 8/3

 

Lịch sử ngày 8-3 bắt đầu từ phong trào của nữ công nhân ngành dệt nước Mỹ vào cuối thế kỳ XIX. Ngày 8/3/1857, các công nhân ngành dệt đứng dậy chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại thành phố New York. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.Khoảng 50 năm sau, ngày 8/3/1908, 15.000 phụ nữ diễu hành trên các đường phố New York đòi tăng lương, giảm giờ làm việc và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Sau đó, Đảng Xã hội Hoa Kỳ tuyên bố Ngày Quốc tế Phụ nữ là ngày 28/2/1909.

Tuy nhiên, đến ngày 8/3/1910, tại Hội nghị phụ nữ do Quốc tế thứ 2 (Quốc tế Xã hội chủ nghĩa) tổ chức, 100 đại biểu phụ nữ thuộc 17 nước đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chủ tịch Hội nghị là bà Clara Zetkin, phụ nữ Đức, đã đề nghị chọn một ngày quốc tế phụ nữ để nhớ ơn những phụ nữ đã đấu tranh trên toàn thế giới. Hội nghị đã quyết định chọn ngày 8/3 làm Ngày Quốc tế Phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ với những khẩu hiệu: “Ngày làm việc 8 giờ”, “Việc làm ngang nhau”, “Bảo vệ bà mẹ và trẻ em”.

Từ đó, ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày đấu tranh chung của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, là biểu dương ý chí đấu tranh của phụ nữ khắp nơi trên thế giới đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội; vì quyền lợi hạnh phúc của phụ nữ và nhi đồng.

Ở nước ta, vào ngày 8/3 còn là dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ nguyên bờ cõi, giang sơn đất Việt.

Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của các Lạc hầu, Lạc tướng, của những người yêu nước ở khắp các thị quận và đông đảo lực lượng là phụ nữ tham gia khởi nghĩa.

Được sự ủng hộ đông đảo của các lực lượng, cuộc Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã lan rộng khắp nơi. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi, đập tan chính quyền đô hộ, buộc tướng Tô Định phải cải trang, cắt tóc, cạo râu trốn về nước.

Sau cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Bà Trưng Trắc được các tướng lĩnh và nhân dân suy tôn làm vua. Bà lên ngôi và lấy niên hiệu là Trưng Nữ Vương; đóng đô ở Mê Linh (huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay).

Năm 42, nhà Hán lại kéo quân sang xâm lược nước ta. Hai Bà lại một lần nữa ra quân, phất cờ khởi nghĩa, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, do chênh lệch thế lực với địch quá lớn nên cuộc khởi nghĩa chỉ kéo dài 2 năm. Hai Bà đã hy sinh anh dũng để bảo vệ dân tộc.

Thắng lợi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà trưng được đánh giá là một bản anh hùng ca bất diệt, thể hiện ý chí độc lập và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, cuộc khởi nghĩa cũng là một minh chứng cho sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử nhân loại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tại Việt Nam, để thể hiện sự tôn vinh những người phụ nữ, một nửa thế giới, người ta thường tổ chức rất trang trọng, tràn ngập hoa và những lời chúc tốt đẹp. Ngày 8/3 cũng là ngày nam giới thể hiện sự chăm sóc yêu thương cho người phụ nữ mà họ yêu quý.

Trong 365 ngày của một năm, phụ nữ có riêng một ngày để được xã hội quan tâm và bù đắp những thiệt thòi, vất vả trong cuộc sống. Họ luôn âm thầm hy sinh và chịu đựng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì vậy, họ xứng đáng nhận được sự tôn trọng và quan tâm hơn nữa từ một nửa kia còn lại của thế giới, chia sẻ với họ những khó khăn trong công việc và gia đình.

Không ai có thể phủ nhận vai trò và trách nhiệm to lớn của người phụ nữ thời hiện đại: Họ vừa là người nội trợ, vừa tham gia lao động xã hội, đóng góp sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước, không những thế họ còn giữ một thiên chức cao cả là một người mẹ, mang nặng đẻ đau ra những đứa con và nuôi dạy chúng thành người. Phụ nữ ngày nay đang dần khẳng định mình là phái đẹp chứ không còn là phái yếu như trước kia.

 

Ngày 16/3/2021; 25/03/2021 và 16/03/2022; 25/3/2022

 

Bài tuyên truyền phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em

 

Nạn xâm phạm tình dục trẻ em là một trong những vấn đề đang gây phẫn nộ cộng đồng mạng nhưng các cha mẹ rất ít trang bị các biện pháp phòng chống xâm hại trẻ em cho con mình, dạy con trẻ biết được điều gì quan trọng trên cơ thể của mình và không ai được phép đụng vào những khu vực cấm, cũng như giúp trẻ hiểu được độ nguy hiểm của những đối tượng lạ đang tiếp cận với mình… Vì thế, Cha mẹ phải cần phải luôn quan tâm đặc biệt đến con để có những biện pháp tốt nhất giáo dục con phù hợp ngay từ nhỏ.

Để giúp cho các bậc cha mẹ tránh được việc con mình bị xâm hại thân thể hay xâm hại các vấn đề khác một cách kịp thời và hiệu quả, trường Mầm non Vạn Bảo đã sưu tầm 8 biện pháp phòng chống xâm hại trẻ em cực quan trọng này để các bậc cha mẹ áp dụng giáo dục ngay cho bé con của mình trước khi quá muộn.
         1. Dạy trẻ giao tiếp theo quy tắc 5 ngón tay
Quy tắc bàn tay giao tiếp qua 5 ngón tay giúp trẻ hiểu được các mối quan hệ
         Ngón cái đưa lên: Chỉ ôm hôn với những người thân ruột thịt trong 1 nhà (anh chị em ruột, bố mẹ, ông bà) mới được ôm hôn mình để thể hiện tình yêu thương thôi con nhé.
         Ngón trỏ đưa lên: Chỉ khoác tay, nắm tay với những người trong họ hàng, thầy cô, bạn bè nhé. Nếu ai vượt hơn giới hạn này như ôm hôn con thì phải có bố mẹ, nếu không hãy nói KHÔNG.
          Ngón giữa đưa lên: Con chỉ bắt tay giao thiệp khi gặp người mà mình quen biết nhé.
         Ngón áp út đưa lên: Vẫy tay xin chào thể hiện sự thân thiện và hiếu khách nếu gặp người lạ đến nhà hoặc ngoài phố.
        Ngón út - ngón tay xa bé nhất: bỏ chạy, hét to để thông báo với mọi người xung quanh với những người hoàn toàn xa lạ  có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an.
        2. Dạy trẻ về giới tính và các vùng nhạy cảm trên cơ thể

Kỹ năng đầu tiên về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em mà các bậc cha mẹ cần dạy cho con mình đó là những kiến thức về giới tính và nhận biết các vùng nhạy cảm trên cơ thể như: vùng mặt và vùng cơ thể…
Nhiều trường hợp trẻ bị xâm hại mà không thể tự nhận biết được mức độ nghiêm trọng của vấn đề do còn quá nhỏ và thiếu hiểu biết về các vấn đề trên. Thế nên những kẻ biến thái có thể dễ dàng dụng chạm vào cơ thể các bé mà các bé không nhận thức đó là vùng cấm.
          Hãy chỉ cho trẻ nhận biết rằng các vùng nhạy cảm trên cơ thể là nơi quan trọng nghiêm cấm bất kỳ ai động chạm. Kể cả cô chú người thân quen có xin phép thì con cũng hãy từ chối và nhớ quy tắc bàn tay giao tiếp để cân nhắc về mối quan hệ.
         3. Không cho người khác chạm vào vùng nhạy cảm
          Ngoài việc dạy con nhận biết các vùng nhạy cảm quan trọng ở trên xong rồi thì cha mẹ cần dạy cho trẻ biết cách tự bảo vệ cơ thể trước sự động chạm của người khác một cách cố ý.
          Hãy hướng dẫn con như là: “Nếu ai đó cố ý động chạm con bằng được và con không thích điều đó, hãy xử lý nhanh nhất bằng cách bỏ chạy“ Hoặc “Nếu cảm thấy sự nguy hiểm lớn hơn thì con vừa bỏ chạy ngay vừa la lớn, nhờ sự giúp đỡ của những người xung quanh khi không có người thân bên cạnh“.

4. Không chạm vào vùng nhạy cảm của người khác

Bên cạnh việc dạy trẻ tự bảo vệ cơ thể của mình rồi thì các bậc cha mẹ cũng cần dạy trẻ chú ý không chạm vào vùng nhạy cảm của người khác, đặc biệt là một người khác giới.
 Tuyệt đối không nên tò mò về cơ thể người khác để tránh bị lợi dụng, dụ dỗ hay vô tình kích thích thú tính của những kẻ xấu xa
          5. Dạy trẻ tránh xa những người lạ mặt cố làm thân

Hãy dạy cho trẻ cách nói “KHÔNG” và tránh xa người lạ mặt.
Đồng thời, cha mẹ nên cảnh báo cho trẻ những nguy hiểm có thể gặp phải khi bé đi chơi một mình với người lạ mặt hoặc đi đến những nơi vắng vẻ, những nơi tối tăm, kín đáo.
Đừng quá tò mò về lời người khác kể và đi theo một ai đó. Và khi ai đó cho con thứ gì (như bánh kẹo), hãy từ chối vì con sẽ gặp nguy hiểm và cha mẹ sẽ lo lắng cho con  lắm đấy.


          6. Dạy trẻ không cho người lạ mặt vào nhà

Tuyệt đối không cho người lạ vào nhà. Khi có ai kêu cửa, trẻ cần phải thông báo/gọi điện cho cha mẹ biết nếu có ai đó kêu mở cửa. Khi chưa có sự đồng ý của cha mẹ thì tuyệt đối con không được mở cửa và không ai được phép bước vào nhà.
Cha mẹ cũng nên chú ý không cho trẻ đi chơi một mình, và kể cả là sang nhà hàng xóm hay đến nhà người quen mà không có sự theo dõi của cha mẹ ở đó.
          7. Dạy trẻ cách chạy thật nhanh hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác

Để đề phòng trường hợp không may trẻ bị tấn công, cha mẹ nên đưa ra các giả thuyết về các tình huống và hướng dẫn trẻ cách chạy trốn. Bạn có thể dạy trẻ tìm cơ hội lúc kẻ xấu sơ hở để chạy thật nhanh hoặc la hét thật lớn như “cháu bị bắt cóc, cứu cháu với” để cầu cứu những người xung quanh.
Ngoài ra, cha mẹ cũng nên dạy cho trẻ ghi nhớ số điện thoại của cha mẹ, số điện thoại khẩn cấp cần gọi ngay để trẻ có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp (113, đội an ninh gần nhà).
         8. Báo ngay cho cha mẹ khi trẻ bị đe dọa hoặc không thích bất kỳ người nào.
Phụ huynh cần dạy cho trẻ cách giữ bình tĩnh, con không phải sợ hãi hay lo lắng khi có bất kỳ kẻ nào đe dọa sẽ hoặc làm tổn thương đến con nếu con mách lại với bố mẹ.
Cha mẹ sau khi nghe con chia sẻ, hãy tin tưởng con và cố gắng tâm sự với con để con bớt lo lắng và đề phòng.
Những điều trên sẽ giúp cho trẻ có thêm những kĩ năng để tự bảo vệ mình trước những hành vi đồi bại của những kẻ xấu. Hãy quan tâm đến con nhiều hơn, đừng để những hối tiếc sẽ muộn màng nhé các bậc cha mẹ. Trẻ em là tương lai của đất nước, là hi vọng của cha mẹ, là hạt mầm xanh của xã hội. Hãy giáo dục con tốt nhất nhé.

Tháng 4: 05/4/2021 và 05/4/2022

 

Bài tuyên truyền bàn về công tác tuyên truyền nhận thức về bình đẳng giới

 

Bình đẳng giới đang là một vấn đề được đặc biệt quan tâm ở mọi quốc gia. Liên hợp quốc đã thống nhất quan điểm và thông qua Chương trình hành động giới, lồng ghép giới tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ tư năm 1995 tại Bắc Kinh (Trung Quốc). Ở Việt Nam, bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong thời kỳ đổi mới. Để thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới là hết sức cần thiết.

Gần 5 năm triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức bình đẳng giới cho cán bộ và nhân dân ở các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước đã đạt được những kết quả đáng kể.Thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới đã giúp cho các cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức và công dân thấy rõ nguy cơ, thực trạng của vấn đề bất bình đẳng giới đang ngăn cản sự phát triển của đất nước, từ đó có được nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bình đẳng giới đối với sự phát triển xã hội, cộng đồng.
         Công tác tuyên truyền về bình đẳng giới đã góp phần làm chuyển biến nhận thức và hành vi của cộng đồng dân cư về giới và bình đẳng giới trong quan hệ đối xử giữa nam và nữ, trong thực hiện kế hoạch hoá gia đình, trong lựa chọn sinh con theo giới tính, về vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Trong công cuộc đổi mới, công tác này góp phần không nhỏ vào việc thay đổi nhận thức của phụ nữ theo hướng tiến bộ về vị trí, vai trò của họ và giúp họ khẳng định được bản thân mình trong xã hội. Các tấm gương tiêu biểu của giới nữ ở nhiều độ tuổi, trình độ học vấn, chuyên môn, lĩnh vực hoạt động khác nhau là minh chứng sáng rõ cho vấn đề nêu trên.
Bên cạnh tuyên truyền chính thống thông qua các cuộc họp, hội thảo, hội nghị thì các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã tích cực đẩy mạnh công tác truyền thông bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: phát thanh, truyền hình, tạp chí, tờ rơi, hội thi tìm hiểu... Các hoạt động này đã góp phần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về giới tới các cấp, các địa phương, tới mọi đối tượng dân cư trong cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết về giới và bình đẳng giới. Đồng thời vấn đề bình đẳng giới còn được tiến hành lồng ghép trong nhiều hoạt động chuyên đề của từng cơ quan và trong nhiều chương trình, dự án kinh tế - xã hội khác ở các cấp, các ngành, các địa phương.
            Tuy nhiên, nhận thức vấn đề bình đẳng giới trong các nhóm xã hội (gia đình, dòng họ, làng xã, dân tộc, nghề nghiệp) vẫn còn thiếu sự thống nhất. Tư tưởng“trọng nam khinh nữ”ngự trị dai dẳng trong xã hội vẫn tiếp tục là hệ quả xấu đối với nam giới trong đối xử với nữ giới, là rào cản trong quá trình thực hiện bình đẳng giới. Sự bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực như về quyền lợi, nghĩa vụ, phân công lao động, cơ hội việc làm, tiền lương, thu nhập, cơ hội thăng tiến giữa nam và nữ.
           Vấn đề trên có thể do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết và chủ yếu do công tác tuyên truyền, giáo dục về giới và bình đẳng giới chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Nội dung tuyên truyền chưa được chuyển tải thường xuyên, sâu rộng, chưa sát với đối tượng. Các cấp, các ngành, đoàn thể chưa có sự quan tâm đúng mức về vấn đề này. Nhận thức của phụ nữ về quyền lợi của mình còn nhiều hạn chế, nhất là phụ nữ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
           Trong thời gian tới, để pháp luật về bình đẳng giới ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, thiết nghĩ cần tiếp tục thực hiện các giải pháp sau đây:
        Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền Luật Bình đẳng giới để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm trong thực hiện bình đẳng giới cho cộng đồng, giúp họ hiểu được trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới không chỉ là của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp.
         Thứ hai, tăng cường mở các lớp đào tạo, tập huấn về giới và bình đẳng giới cho các đối tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý của các ban ngành, đoàn thể, những cán bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động liên quan đến việc bảo đảm và thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ. Thông qua các khoá đào tạo, tập huấn này mà góp phần nâng cao nhận thức và kỹ năng về bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ, giúp họ có khả năng lồng ghép các chính sách về giới vào các chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương có hiệu quả hơn. Các nội dung đào tạo, tập huấn cần cung cấp cho đội ngũ cán bộ này các kiến thức mang tính toàn diện khách quan về bình đẳng giới. Cần phân tích thực trạng bất bình đẳng giới đang tồn tại ở nước ta hiện nay đã cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội để họ có được nhận thức và hành động đúng đắn hơn trong việc lồng ghép giới vào phát triển kinh tế - xã hội ở từng ngành, từng địa phương đạt hiệu quả.
           Thứ ba, đối với cộng đồng dân cư, việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Tăng cường các hoạt động tập huấn để các loại tài liệu tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, về giới và bình đẳng giới đến được với tất cả phụ nữ và cộng đồng. Cần có nhiều chương trình, dự án để lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo điều kiện phát huy vai trò, vị thế của người phụ nữ, trên cơ sở này sẽ giúp cả giới nam và giới nữ xoá bỏ những tư tưởng phong kiến, lạc hậu ăn sâu trong tâm trí người dân, tạo điều kiện cho bình đẳng giới được thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn.
          Thứ tư, phải có sự phối kết hợp thống nhất, chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; lên án, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
           Thứ năm, cần phải có sự đầu tư, tạo điều kiện thích đáng cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho các địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở vì đây là cấp hành động, là cấp gần dân nhất. Tạo điều kiện để xây dựng tủ sách pháp luật nói chung, có liên quan đến bình đẳng giới nói riêng ở cơ sở là một hoạt động cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Các loại sách phải có nội dung đơn giản, dễ đọc, dễ nhớ và phù hợp với từng đối tượng.
          Thứ sáu, đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường phổ thông, giúp cho thanh niên, thiếu niên nhận thức đúng những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ bản và hệ thống. Từ đó, các em có ý thức trách nhiệm về bình đẳng giới trong xây dựng gia đình và xã hội.
         Thứ bảy, chú trọng việc nêu gương tốt, điển hình trong thực hiện bình đẳng giới qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục; đồng thời tạo dư luận xã hội công khai qua công tác tuyên truyền với những vụ việc vi phạm về bình đẳng giới.

 

Ngày  15/04/2021; 22/04/2021 và 15/04/2022; 22/04/2022:

 

Bài tuyên truyền thực trạng trẻ em bị xâm hại

 

Trong 02 năm 2017 – 2018, toàn quốc xảy ra 3.139 vụ bạo lực, xâm hại trẻ em với 3.221 trẻ em bị bạo lực, xâm hại, trong đó 2.643 vụ xâm hại tình dục với 2.690 trẻ em bị xâm hại tình dục; 3 tháng đầu năm 2019 đã xử lý 310 vụ bạo lực, xâm hại trẻ em với 325 trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
           Số lượng các vụ việc xâm hại trẻ em nghiêm trọng được phát hiện, xử lý có giảm nhưng không nhiều, tính chất của các vụ xâm hại tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Trẻ em bị xâm hại tình dục xảy ra ở nhiều độ tuổi, do nhiều loại đối tượng gây ra, trong đó phần lớn là người quen, họ hàng, hàng xóm, không chỉ người Việt Nam mà cả người nước ngoài và có cả trường hợp xâm hại tình dục trẻ em trên môi trường mạng. Nhiều vụ việc gia đình không cung cấp thông tin, thông báo, tố giác tới các cơ quan chức năng, vì sợ ảnh hưởng đến trẻ em và gia đình; thủ phạm có sự đe dọa hoặc dùng tiền mua chuộc, hòa giải với gia đình của nạn nhân.
           Bạo lực, xâm hại tình dục gây tổn thương nặng nề đến cả thể chất và tinh thần trẻ em, thậm chí làm trẻ em bị tử vong hoặc khiến trẻ em phải tự tử. Trong năm 2017, 2018, một số vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội: Em gái 11 tuổi bị cả cha đẻ và ông nội xâm hại tình dục tại Vĩnh Long. Trẻ em tại trường mầm non Mầm Xanh (thành phố Hồ Chí Minh) và cơ sở Mẹ Mười (thành phố Đà Nẵng) bị bạo lực. Cả cha đẻ và mẹ kế bạo hành, không cho trẻ đi học trong thời gian dài (Hà Nội). Em gái 13 tuổi tự tử sau khi bị người hàng xóm xâm hại tình dục nhiều lần (Cà Mau). Nhiều vụ dâm ô trẻ em tại Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…
          Bạo lực học đường diễn ra ngày càng nhiều, học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học, thầy cô giáo có hành vi bạo lực đối với học sinh, bạo lực trong các cơ sở giáo dục mầm non gây bức xúc trong dư luận xã hội như: trẻ em tại trường Mầm non Hoa Bách Hợp (tỉnh Long An) bị bảo mẫu nhồi nhét thức ăn, liên tục đánh vào đầu; học sinh trường Tiểu học tỉnh Quảng Bình bị cô giáo viên chủ nhiệm bạo lực dẫn đến “chấn động sọ não” phải nhập viện điều trị; Vụ việc cô giáo tại trường trung học cơ sở của thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đánh 22 em học sinh lớp 8; Vụ việc thầy giáo chủ nhiệm lớp 5, Trường tiểu học Tiên Sơn (tỉnh Bắc Giang) có hành vi không đúng chuẩn mực (sờ soạng, đụng vào vùng nhạy cảm) với 13 học sinh nữ lớp 5 do giáo viên này giảng dạy; Một nữ sinh lớp 9 tại trường THCS Phù Ủng (huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) bị nhóm 5 em nữ sinh khác lột quần áo, đánh đấm liên tiếp vào vùng mặt phải nhập viện để điều trị; một nữ sinh tại trường THPT Tử Đà, tỉnh Phú Thọ bị 04 bạn cùng lớp đánh hội đồng dẫn đến chấn thương tâm lý, không thể nói chuyện được.

 

Tháng 05: Ngày 8/5/2021 và ngày 08/05/2022

 

Bài tuyên truyền về Bình đẳng giới

 

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.

Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại, đặc biệt là trong điều kiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa hiện nay. Bình đẳng giới trong gia đình là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng; là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em; góp phần tăng chất lượng cuộc sống của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; góp phần giải phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững.

Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng giới như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình…mà trọng tâm là Luật bình đẳng giới và thông qua các công ước quốc tế như công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em… nhờ đó mà phụ nữ và trẻ em đều được bảo vệ.

Tuy nhiên, định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở trong gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội. Trên thực tế, thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ.

Hiện tượng bất bình đẳng vẫn phổ biến ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc phụ nữ là lao động chính song lại không có tiếng nói trong gia đình. Những người đàn ông thường giành thời gian cho việc làng, việc nước, họ hàng, rồi rượu chè, các tệ nạn xã hội… nên gánh nặng gia đình cũng như cường độ lao động và sự vất vả đều dồn lên đôi vai người phụ nữ.

Nguyên nhân trên do một bộ phận xã hội hiểu không đúng về bình đẳng và bình đẳng giới, còn quan niệm cho rằng bình đẳng giới là ưu tiên cho phụ nữ và việc thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và của Hội phụ nữ VN. Nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại trong xã hội, nhất là lãnh đạo, cán bộ, công chức và nam giới…

Để đẩy mạnh việc thực hiện bình đẳng trong các gia đình: với chủ đề: “Chung tay xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái”

Chúng ta cần làm tốt những thông điệp tuyên truyền sau:

1. Hướng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm

2. Hưởng ứng ngày Quốc tế xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ.

3. Phụ nữ và trẻ em gái hãy lên tiếng khi bị bạo lực.

4. Cùng chung tay để chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

5. Chung tay xây dựng một xã hội không còn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

6. Bình đẳng giới là chìa khóa để xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

7. Hãy lên tiếng khi bạn chứng kiến bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

8. Đừng im lặng, hãy chia sẻ khi bạn là nạn nhân của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

9. Bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái là vi phạm pháp luật.

10. Quyền của phụ nữ là quyền con người

 

 

 

 

 

Ngày 15/5/2021; 22/5/2021 và ngày 15/5/2022 ; 22/5/2022:

 

Bài tuyên truyền về Thực trạng trẻ em bị xâm hại

 

Trong thời gian gần đây, trên cả nước xảy ra hàng loạt vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, gây bức xúc dư luận và gây hoang mang cho nhiều bậc phụ huynh. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 - 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%.

Do đó, việc tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết và trang bị các kiến thức, kỹ năng để hướng dẫn các em mình chủ động phòng chống nạn xâm hại tình dục, nhất là đối với trẻ em. Không ít trường hợp xâm hại tình dục gây chấn động dư luận vì người gây tội ác lại chính là những người thân thiết trong gia đình. Do đó, việc trang bị kỹ năng sống, kỹ năng phòng vệ cá nhân là rất cần thiết cho các em.

Vậy, những dấu hiệu trẻ bị xâm hại tình dục ra sao? Cần trang bị những kỹ năng phòng vệ cho trẻ như thế nào?

1. Thế nào là xâm hại tình dục trẻ em?

Xâm hại tình dục trẻ em là sử dụng trẻ em để thoả mãn nhu cầu tình dục của người lớn hơn. Xâm hại tình dục trẻ em bao gồm lạm dụng tình dục trẻ em và bóc lột tình dục trẻ em.

2. Đối tượng xâm hại

+ Người quen thân thiết: chú, bác, anh em, hàng xóm….

+ Người không quen biết.

+ Thành phần: nam, nữ mọi lứa tuổi.

3. Các mức độ xâm hại tình dục

Hành vi xâm hại tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục của trẻ, thủ dâm, tiếp xúc miệng với bộ phận sinh dục, giao hợp bằng ngón tay, giao hợp qua đường sinh dục hoặc hậu môn. Xâm hại tình dục ở trẻ em không chỉ giới hạn vào các tiếp xúc cơ thể mà còn bao gồm cả những hành vi không tiếp xúc như khoe bộ phận sinh dục cho trẻ thấy, kể cho trẻ nghe về tình dục, cho xem phim, truyện khiêu dâm, tìm cách hướng dẫn, kích thích tình dục trẻ, rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ em

4. Tác hại của việc xâm hại tình dục

+ Làm tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, tâm lý, sức khoẻ của trẻ.

+ Gây hoang mang, lo lắng cho gia đình và xã hội.

+ Làm ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em, của dân tộc.

+ Làm gia tăng tệ nạn mại dâm, tệ nạn buôn bán phụ nữ, tăng sự lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây qua đường tình dục.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta.

5. Các quy tắc phòng chống nguy cơ bị xâm hại

- Không đi một mình ở nơi tối tăm, vắng vẻ.

- Không ở trong phòng kín một mình với người lạ. Nếu đó là người quen của gia đình thì cửa phòng phải luôn được mở.

- Không nhận tiền, quà hoặc nhận sự giúp đỡ đặc biệt của người khác mà không rõ lý do.

- Không đi nhờ xe người lạ, hoặc sử dụng ăn uống của người lạ đưa .

- Không để cho người lạ đến gần đến mức họ có thể chạm tay vào người mình.

- Không để người lạ vào nhà, nhất là khi trong nhà chỉ có một mình.

- Không nói chuyện điện thọai với người lạ khi đang ở nhà một mình.

- Không cho ai có quyền tùy tiện động chạm, sờ mó vào chỗ kín của cơ thể hoặc bất kỳ hành động thô lỗ nào với các em.

- Không ăn mặc hở hang, không gần gũi quá mức với người lạ, kể cả những người thân họ hàng (trừ Bố mẹ, ông Bà, anh chị em ruột của mình) .

- Tin vào linh tính của bản thân khi thấy điều gì không bình thường cần cảnh giác và chủ động nghĩ cách phòng tránh để thoát ra khỏi tình huống đó.

6. Những chỉ dẫn giúp các em tránh nguy cơ bị động chạm không an toàn, bị xâm hại

- Đứng ngay dậy

- Nhìn thẳng vào kẻ định sàm sỡ

- Lùi ra xa đủ để không cho họ với tay được đến mình.

- Nói to/hét to và kiên quyết: Không! Hãy dừng lại ! Tôi không cho phép! Tôi không muốn! Nếu không dừng lại, tôi sẽ mách với mọi người …

(Có thể nhắc đi nhắc lại).

- Bỏ chạy đến chỗ an toàn nếu họ tìm cách sờ nắn hoặc ôm ấp mình và kêu to cầu cứu sự giúp đỡ của mọi người xung quanh.

- Kể ngay với cha mẹ hoặc những người tin cậy. Nếu người thứ nhất chưa tin lời em thì kể với người thứ hai, nếu người thứ hai chưa tin thì kể cho người thứ ba,… cho đến lúc có người tin và giúp đỡ. Cha mẹ, người lớn trong gia đình, thầy cô giáo, bạn bè, trụ sở công an gần nhất,… hay bất cứ người nào mà các em tin tưởng là người các em cần tìm và nhờ họ giúp đỡ, bảo vệ.

- Nếu em bị sàm sỡ, xâm hại, hãy kể ngay với cha mẹ, người thân và cùng người lớn đến cơ sở y tế để khám.

- Các em không nên phớt lờ, chối bỏ, né tránh vấn đề.

7. Cách xử lý khi bị xâm hại tình dục.

+ Nói chuyện với bố, mẹ, người thân,… về việc đã xảy ra để có cách giải quyết.

+ Không giấu diếm mọi chuyện mà phải tìm cách vạch trần “yêu râu xanh” để tránh gây hại cho những bạn khác.

+ Không che giấu, thu mình vào một thế giới hoang mang của riêng mình.

+ Nhờ bố mẹ, người thân đưa đi khám để xác định mức độ và điều trị tổn thương thực tế.

Trên đây là một số kỹ năng giúp các em phòng chống quấy rối và xâm hại. Nhà trường, gia đình và thầy, cô giáo luôn tin tưởng các em, mong các em luôn dũng cảm, luyện tập trước những kỹ năng ứng biến để bình tĩnh, xử lý!

Hãy nhớ rằng em không phải là người có lỗi khi bị xâm hại tình dục.

III. Quy định của pháp luật về hành vi xâm hại tình dục trẻ em 

Trẻ em là các đối tượng dưới 16 tuổi được pháp luật bảo vệ về quyền trẻ em, được bảo vệ bởi gia đình và Nhà trường bởi đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và nhận thức. Trong xã hội ngày càng hiện đại, với sự bùng nổ của mạng xã hội như facebook, zalo, tinder, trẻ em đang bị ảnh hưởng gián tiếp qua những trang mạng xã hội này và rất nhiều tội phạm xâm hại tình dục trẻ em dưới nhiều hình thức khác nhau.

Tất cả các hành vi xâm hại tình dục trẻ em đều sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 

+ Hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị xử phạt tại Điều 142 bị phạt tù thấp nhất là 07 năm, mức phạt tù cao nhất là bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

+ Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 144 với mức phạt tù thấp nhất là 05 năm, mức phạt tù cao nhất là 20 năm hoặc tù chung thân.

+ Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 thì áp dụng mức phạt tù thấp nhất là 01 năm, mức phạt tù cao nhất là 15 năm.

+ Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi Điều 146 với mức phạt tù thấp nhất là 06 tháng, mức phạt tù cao nhất là 12 năm.

Ngoài ra, người nào phạm 1 trong các tội danh trên còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Với 4 tội danh như trên, căn cứ theo mức độ tính chất của hành vi, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét và áp dụng đúng hình phạt đúng tội.

 

Tháng 6: 05/6/2021; 20/06/2021.

 

BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.

 

Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại, đặc biệt là trong điều kiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa hiện nay. Bình đẳng giới trong gia đình là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng, được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng; là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em; góp phần tăng chất lượng cuộc sống của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; góp phần giải phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững.

Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng giới như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình…mà trọng tâm là Luật bình đẳng giới và thông qua các công ước quốc tế như công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em nhờ đó mà phụ nữ và trẻ em đều được bảo vệ.
            Tuy nhiên, định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở trong gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội. Trên thực tế, thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ.

Hiện tượng bất bình đẳng vẫn phổ biến ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc phụ nữ là lao động chính song lại không có tiếng nói trong gia đình. Những người đàn ông thường giành thời gian cho việc làng, việc nước, họ hàng, rồi rượu chè, các tệ nạn xã hội… nên gánh nặng gia đình cũng như cường độ lao động và sự vất vả đều dồn lên đôi vai người phụ nữ.

Nguyên nhân trên do một bộ phận xã hội hiểu không đúng về bình đẳng và bình đẳng giới, còn quan niệm cho rằng bình đẳng giới là ưu tiên cho phụ nữ và việc thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và của Hội phụ nữ VN. Nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại trong xã hội, nhất là lãnh đạo, cán bộ, công chức và nam giới…
           Để đẩy mạnh việc thực hiện bình đẳng trong các gia đình: với chủ đề: “Chung tay xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái

Chúng ta cần làm tốt những thông điệp tuyên truyền sau:

1. Hướng ứng Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới năm 2018.

2. Hưởng ứng ngày Quốc tế xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ.

3. Phụ nữ và trẻ em gái hãy lên tiếng khi bị bạo lực.

4. Cùng chung tay để chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

5. Chung tay xây dựng một xã hội không còn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

6. Bình đẳng giới là chìa khóa để xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

7. Hãy lên tiếng khi bạn chứng kiến bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

8. Đừng im lặng, hãy chia sẻ khi bạn là nạn nhân của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái.

9. Bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái là vi phạm pháp luật.

10. Quyền của phụ nữ là quyền con người.

11. Hãy hành động để chấm dứt ngay bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái

 

Ngày 12/6/2021 và 22/6/2021

 

Bài tuyên truyền về thực trạng trẻ em bị xâm hại

 

Trong 02 năm 2017 – 2018, toàn quốc xảy ra 3.139 vụ bạo lực, xâm hại trẻ em với 3.221 trẻ em bị bạo lực, xâm hại, trong đó 2.643 vụ xâm hại tình dục với 2.690 trẻ em bị xâm hại tình dục; 3 tháng đầu năm 2019 đã xử lý 310 vụ bạo lực, xâm hại trẻ em với 325 trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
          Số lượng các vụ việc xâm hại trẻ em nghiêm trọng được phát hiện, xử lý có giảm nhưng không nhiều, tính chất của các vụ xâm hại tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Trẻ em bị xâm hại tình dục xảy ra ở nhiều độ tuổi, do nhiều loại đối tượng gây ra, trong đó phần lớn là người quen, họ hàng, hàng xóm, không chỉ người Việt Nam mà cả người nước ngoài và có cả trường hợp xâm hại tình dục trẻ em trên môi trường mạng. Nhiều vụ việc gia đình không cung cấp thông tin, thông báo, tố giác tới các cơ quan chức năng, vì sợ ảnh hưởng đến trẻ em và gia đình; thủ phạm có sự đe dọa hoặc dùng tiền mua chuộc, hòa giải với gia đình của nạn nhân.
Bạo lực, xâm hại tình dục gây tổn thương nặng nề đến cả thể chất và tinh thần trẻ em, thậm chí làm trẻ em bị tử vong hoặc khiến trẻ em phải tự tử. Trong năm 2017, 2018, một số vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội: Em gái 11 tuổi bị cả cha đẻ và ông nội xâm hại tình dục tại Vĩnh Long. Trẻ em tại trường mầm non Mầm Xanh (thành phố Hồ Chí Minh) và cơ sở Mẹ Mười (thành phố Đà Nẵng) bị bạo lực. Cả cha đẻ và mẹ kế bạo hành, không cho trẻ đi học trong thời gian dài (Hà Nội). Em gái 13 tuổi tự tử sau khi bị người hàng xóm xâm hại tình dục nhiều lần (Cà Mau). Nhiều vụ dâm ô trẻ em tại Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…
          Bạo lực học đường diễn ra ngày càng nhiều, học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học, thầy cô giáo có hành vi bạo lực đối với học sinh, bạo lực trong các cơ sở giáo dục mầm non gây bức xúc trong dư luận xã hội như: trẻ em tại trường Mầm non Hoa Bách Hợp (tỉnh Long An) bị bảo mẫu nhồi nhét thức ăn, liên tục đánh vào đầu; học sinh trường Tiểu học tỉnh Quảng Bình bị cô giáo viên chủ nhiệm bạo lực dẫn đến “chấn động sọ não” phải nhập viện điều trị; Vụ việc cô giáo tại trường trung học cơ sở của thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đánh 22 em học sinh lớp 8; Vụ việc thầy giáo chủ nhiệm lớp 5, Trường tiểu học Tiên Sơn (tỉnh Bắc Giang) có hành vi không đúng chuẩn mực (sờ soạng, đụng vào vùng nhạy cảm) với 13 học sinh nữ lớp 5 do giáo viên này giảng dạy; Một nữ sinh lớp 9 tại trường THCS Phù Ủng (huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) bị nhóm 5 em nữ sinh khác lột quần áo, đánh đấm liên tiếp vào vùng mặt phải nhập viện để điều trị; một nữ sinh tại trường THPT Tử Đà, tỉnh Phú Thọ bị 04 bạn cùng lớp đánh hội đồng dẫn đến chấn thương tâm lý, không thể nói chuyện được.

 

Tháng 7: 05/7/2021 ngày 22/7/2021

 

Bài tuyên truyền vai trò của gia đình trong nhận thức

và thực hiện bình đẳng giới

 

Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới. Bình đẳng giới là nam giới và nữ giới cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển. Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực, bình đẳng cho thù lao trong công việc, bình đẳng trong việc hưởng thụ các thành quả, bình đẳng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội (bình đẳng trong tiếng nói). Thế giới đã trải qua hơn 100 năm của chặng đường bình đẳng giới. Nhìn lại những thành tựu và những tồn tại hiện nay của chặng đường đó, cả nhân loại phải thừa nhận thành quả của bình đẳng giới đã góp phần rất quan trọng vào sự tiến bộ chung của thế giới. Bình đẳng giới là cần thiết và có thể thực hiện được. ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và được đánh giá là một động lực và mục tiêu phát triển quốc gia. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ thể hóa trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Mặc dù vậy, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam còn đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện được mục tiêu này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và thực hiện bình đẳng giới là yếu tố quan trọng. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và thực hiện bình đẳng giới thuộc về tất cả các thể chế trong xã hội, trong đó gia đình đóng vai trò quan trọng. Gia đình là nơi định hình các quan hệ giới, truyền tải những chuẩn mực về giới và quyết định những cơ hội cho các thành viên gia đình. Gia đình là nơi đưa ra các quyết định cơ bản như: Số con, việc nuôi dạy con, phân bố thời gian và nguồn lực sản xuất, tiêu dùng và đầu tư cho tương lai… Thực tế cho thấy, gia đình có thể làm trầm trọng hơn định kiến giới hoặc có thể làm dịu đi sự phân biệt giới. Có thể nói, gia đình đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và thực hiện bình đẳng giới:
 

Ngày 15/7/2021 và 22/7/2021:

 

Bài tuyên truyền phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em

 

Nạn xâm phạm tình dục trẻ em là một trong những vấn đề đang gây phẫn nộ cộng đồng mạng nhưng các cha mẹ rất ít trang bị các biện pháp phòng chống xâm hại trẻ em cho con mình, dạy con trẻ biết được điều gì quan trọng trên cơ thể của mình và không ai được phép đụng vào những khu vực cấm, cũng như giúp trẻ hiểu được độ nguy hiểm của những đối tượng lạ đang tiếp cận với mình… Vì thế, Cha mẹ phải cần phải luôn quan tâm đặc biệt đến con để có những biện pháp tốt nhất giáo dục con phù hợp ngay từ nhỏ.

Để giúp cho các bậc cha mẹ tránh được việc con mình bị xâm hại thân thể hay xâm hại các vấn đề khác một cách kịp thời và hiệu quả, trường Mầm non Vạn Bảo đã sưu tầm 8 biện pháp phòng chống xâm hại trẻ em cực quan trọng này để các bậc cha mẹ áp dụng giáo dục ngay cho bé con của mình trước khi quá muộn.
          1. Dạy trẻ giao tiếp theo quy tắc 5 ngón tay
          Quy tắc bàn tay giao tiếp qua 5 ngón tay giúp trẻ hiểu được các mối quan hệ
          Ngón cái đưa lên: Chỉ ôm hôn với những người thân ruột thịt trong 1 nhà (anh chị em ruột, bố mẹ, ông bà) mới được ôm hôn mình để thể hiện tình yêu thương thôi con nhé.
          Ngón trỏ đưa lên: Chỉ khoác tay, nắm tay với những người trong họ hàng, thầy cô, bạn bè nhé. Nếu ai vượt hơn giới hạn này như ôm hôn con thì phải có bố mẹ, nếu không hãy nói KHÔNG.
          Ngón giữa đưa lên: Con chỉ bắt tay giao thiệp khi gặp người mà mình quen biết nhé.
         Ngón áp út đưa lên: Vẫy tay xin chào thể hiện sự thân thiện và hiếu khách nếu gặp người lạ đến nhà hoặc ngoài phố.
         Ngón út - ngón tay xa bé nhất: bỏ chạy, hét to để thông báo với mọi người xung quanh với những người hoàn toàn xa lạ  có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an.

          2. Dạy trẻ về giới tính và các vùng nhạy cảm trên cơ thể

Kỹ năng đầu tiên về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em mà các bậc cha mẹ cần dạy cho con mình đó là những kiến thức về giới tính và nhận biết các vùng nhạy cảm trên cơ thể như: vùng mặt và vùng cơ thể…
Nhiều trường hợp trẻ bị xâm hại mà không thể tự nhận biết được mức độ nghiêm trọng của vấn đề do còn quá nhỏ và thiếu hiểu biết về các vấn đề trên. Thế nên những kẻ biến thái có thể dễ dàng dụng chạm vào cơ thể các bé mà các bé không nhận thức đó là vùng cấm.
          Hãy chỉ cho trẻ nhận biết rằng các vùng nhạy cảm trên cơ thể là nơi quan trọng nghiêm cấm bất kỳ ai động chạm. Kể cả cô chú người thân quen có xin phép thì con cũng hãy từ chối và nhớ quy tắc bàn tay giao tiếp để cân nhắc về mối quan hệ.
          3. Không cho người khác chạm vào vùng nhạy cảm
Ngoài việc dạy con nhận biết các vùng nhạy cảm quan trọng ở trên xong rồi thì cha mẹ cần dạy cho trẻ biết cách tự bảo vệ cơ thể trước sự động chạm của người khác một cách cố ý.
Hãy hướng dẫn con như là: “Nếu ai đó cố ý động chạm con bằng được và con không thích điều đó, hãy xử lý nhanh nhất bằng cách bỏ chạy“ Hoặc “Nếu cảm thấy sự nguy hiểm lớn hơn thì con vừa bỏ chạy ngay vừa la lớn, nhờ sự giúp đỡ của những người xung quanh khi không có người thân bên cạnh“.

4. Không chạm vào vùng nhạy cảm của người khác

Bên cạnh việc dạy trẻ tự bảo vệ cơ thể của mình rồi thì các bậc cha mẹ cũng cần dạy trẻ chú ý không chạm vào vùng nhạy cảm của người khác, đặc biệt là một người khác giới.
          Tuyệt đối không nên tò mò về cơ thể người khác để tránh bị lợi dụng, dụ dỗ hay vô tình kích thích thú tính của những kẻ xấu xa
          5. Dạy trẻ tránh xa những người lạ mặt cố làm thân

Hãy dạy cho trẻ cách nói “KHÔNG” và tránh xa người lạ mặt.
Đồng thời, cha mẹ nên cảnh báo cho trẻ những nguy hiểm có thể gặp phải khi bé đi chơi một mình với người lạ mặt hoặc đi đến những nơi vắng vẻ, những nơi tối tăm, kín đáo.
Đừng quá tò mò về lời người khác kể và đi theo một ai đó. Và khi ai đó cho con thứ gì (như bánh kẹo), hãy từ chối vì con sẽ gặp nguy hiểm và cha mẹ sẽ lo lắng cho con  lắm đấy.
          6. Dạy trẻ không cho người lạ mặt vào nhà

Tuyệt đối không cho người lạ vào nhà. Khi có ai kêu cửa, trẻ cần phải thông báo/gọi điện cho cha mẹ biết nếu có ai đó kêu mở cửa. Khi chưa có sự đồng ý của cha mẹ thì tuyệt đối con không được mở cửa và không ai được phép bước vào nhà.
Cha mẹ cũng nên chú ý không cho trẻ đi chơi một mình, và kể cả là sang nhà hàng xóm hay đến nhà người quen mà không có sự theo dõi của cha mẹ ở đó.

           7. Dạy trẻ cách chạy thật nhanh hoặc nhờ sự giúp đỡ của người khác

Để đề phòng trường hợp không may trẻ bị tấn công, cha mẹ nên đưa ra các giả thuyết về các tình huống và hướng dẫn trẻ cách chạy trốn. Bạn có thể dạy trẻ tìm cơ hội lúc kẻ xấu sơ hở để chạy thật nhanh hoặc la hét thật lớn như “cháu bị bắt cóc, cứu cháu với” để cầu cứu những người xung quanh.
Ngoài ra, cha mẹ cũng nên dạy cho trẻ ghi nhớ số điện thoại của cha mẹ, số điện thoại khẩn cấp cần gọi ngay để trẻ có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp (113, đội an ninh gần nhà).

          8. Báo ngay cho cha mẹ khi trẻ bị đe dọa hoặc không thích bất kỳ người nào.
          Phụ huynh cần dạy cho trẻ cách giữ bình tĩnh, con không phải sợ hãi hay lo lắng khi có bất kỳ kẻ nào đe dọa sẽ hoặc làm tổn thương đến con nếu con mách lại với bố mẹ.
         Cha mẹ sau khi nghe con chia sẻ, hãy tin tưởng con và cố gắng tâm sự với con để con bớt lo lắng và đề phòng.
        Những điều trên sẽ giúp cho trẻ có thêm những kĩ năng để tự bảo vệ mình trước những hành vi đồi bại của những kẻ xấu. Hãy quan tâm đến con nhiều hơn, đừng để những hối tiếc sẽ muộn màng nhé các bậc cha mẹ. Trẻ em là tương lai của đất nước, là hi vọng của cha mẹ, là hạt mầm xanh của xã hội. Hãy giáo dục con tốt nhất nhé.

 

Tháng 8: Ngày 05/8/2021

 

Bài tuyên truyền về Bình đẳng giới

 

1. Vai trò của gia đình trong nhận thức về bình đẳng giới

Gia đình là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống con người và truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến thức và kỹ năng về giới. Do vậy, nhận thức về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước trong gia đình như ông bà, cha mẹ… tác động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ kế tiếp. Trong gia đình, con người học những bài học đầu tiên về tôn ti trật tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai học cách quyết đoán và thống trị, con gái học sự phục tùng. Gia đình chính là nơi tạo ra tôn ti trật tự. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng giới sẽ tạo ra những tôn ti trật tự trong đó làm giảm vị thế của nữ giới, dẫn đến bất bình đẳng giới ngay trong gia đình. Trong gia đình truyền thống, ông bà, cha mẹ truyền dạy cho cháu con những nguyên mẫu về các quan niệm và hành vi mong đợi được cho là thích hợp đối với mỗi giới và các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới và nữ giới. Chẳng hạn, quan niệm chung về đặc điểm tính cách của nữ giới là dịu dàng, nam giới là mạnh mẽ, quyết đoán. Do vậy, phụ nữ được quan niệm là gắn liền với vai trò của người mẹ, người vợ, người nội trợ, là người phụ thuộc không quan tâm đến việc họ có thu nhập cao hay thấp; nam giới trở thành trụ cột về kinh tế, là tấm gương đạo đức, là chỗ dựa về tinh thần của phụ nữ và trẻ em, là người chủ gia đình, đại diện cho gia đình trong các quan hệ xã hội và cộng đồng. Những đặc tính trên của nữ giới hay nam giới thực chất là do xã hội gán cho hoặc mong đợi các cá nhân nam và nữ thực hiện. Quan niệm trên chính là những định kiến giới đã tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những định kiến giới đó đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại phổ biến trong xã hội. Khi những định kiến giới tồn tại ở những người trực tiếp thường xuyên nuôi dạy trẻ như cha mẹ, ông bà… thì những quan niệm đó sẽ được thể hiện cụ thể thông qua các hành vi chăm sóc, giáo dục trẻ như: Trẻ em trai hay gái nên làm hoặc không nên làm gì, định hướng hoặc cho phép trẻ em trai và trẻ em gái được chơi các trò chơi theo giới, phân công lao động theo giới trong gia đình, đầu tư cho trẻ em trai và trẻ em gái khác nhau… Từ đó cho thấy, trẻ em có được đặc tính về giới mà đặc tính này sẽ xác định một loạt các hoạt động được xã hội chấp nhận cho nam và nữ cũng như mối quan hệ giữa chúng là từ gia đình. Do vậy, nhận thức của các thế hệ đi trước trong gia đình về giới và bình đẳng giới không đúng đắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của các thế hệ sau. Điều này sẽ làm chậm mục tiêu bình đẳng giới. Ngược lại, khi các thế hệ đi trước nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới, xóa bỏ định kiến giới thì họ sẽ truyền dạy cho các thế hệ kế tiếp những nhận thức đúng đắn đó. Đồng thời, nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới của các thế hệ đi trước sẽ quyết định hành vi của họ trong việc chăm sóc, giáo dục, đầu tư… cho thế hệ tương lai. Sự quan tâm, chăm sóc, tình yêu thương của cha mẹ, ông bà dành cho trẻ em trai và trẻ em gái là như nhau. Con trai, con gái đều được tôn trọng như nhau. Sự đầu tư của cha mẹ, ông bà trong việc phát triển đối với trẻ con trai, con gái phải trên cơ sở năng lực, sở thích và cơ hội của mỗi người con mà không dựa trên giới tính. Sự phân công lao động trong gia đình phải trên cơ sở khả năng của mỗi người con mà không phụ thuộc vào giới tính… Hành động cụ thể trên sẽ tác động tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của thế hệ kế tiếp. Điều đó góp phần rút ngắn khoảng cách giới, tiến tới bình đẳng giới.
        Vai trò tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới của gia đình không chỉ thể hiện trong việc truyền dạy của ông bà, cha mẹ và các thành viên khác của gia đình mà còn thể hiện trong việc làm gương của cha mẹ, ông bà và các thành viên khác trong gia đình. Cách đối xử của cha mẹ, ông bà với nhau phải thể hiện sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, bởi hành vi của cha mẹ, ông bà sẽ là nguyên mẫu cho con cháu. Khi trong gia đình cha mẹ, ông bà tôn trọng nhau, chia sẻ công việc gia đình, cùng nhau bàn bạc và giải quyết các vấn đề… sẽ là tấm gương sáng cho con cháu học tập. Ngược lại, các hành vi thể hiện sự phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình trên cơ sở giới, hình phạt cho các hành vi không đúng đắn, các mẫu người đàn ông và phụ nữ trong gia đình… sẽ tác động tiêu cực đến hành vi và nhận thức về bình đẳng giới đối với thế hệ trẻ.

Như vậy, để có được bình đẳng giới, trước hết trong gia đình cha mẹ, ông bà cần phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới vì chính họ là tác nhân quan trọng nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. Khi các thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới thì trẻ em trai và trẻ em gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người lớn tuổi đối xử bình đẳng. Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa cha mẹ, ông bà; được hưởng quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với nhau. Gia đình mà trong đó nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau sẽ tiếp tục là môi trường tuyên truyền, giáo dục hiệu quả nhất về bình đẳng giới.

2. Vai trò của gia đình trong thực hiện bình đẳng giới

2.1. Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể xóa bỏ phân công lao động theo giới

Phân công lao động theo giới là việc phân công các công việc, các trách nhiệm khác nhau giữa nam và nữ. Sự phân công này là do xã hội gán cho mỗi giới và được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác nên được mọi thành viên của từng cộng đồng nắm vững.

Với tư cách là một thiết chế của xã hội, gia đình là một xã hội thu nhỏ, gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội, trong đó nổi bật nhất là vấn đề bất bình đẳng giới. Gia đình – pháo đài kiên cố nhất của sự bất bình đẳng nam nữ. Mọi sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đều bắt nguồn từ gia đình. Sự bất bình đẳng giới được bắt nguồn từ gia đình, được bao bọc bởi các quan hệ gia đình, tôn ti trật tự, nề nếp gia phong… nên bất bình đẳng giới diễn ra êm ái, dễ dàng và ít gặp sự phản kháng mãnh liệt từ phụ nữ. Địa vị của phụ nữ tác động tới sự phát triển nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ. Nếu địa vị của người phụ nữ thấp kém thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ mà còn ảnh hưởng xấu đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thiên chức của phụ nữ là mang thai, sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, do nhận thức về vai trò giới và giới tính còn hạn chế nên nhiều người cho rằng công việc nội trợ cũng là thiên chức của phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ luôn phải gánh vác công việc trong gia đình như: Chăm sóc con nhỏ, người già, người đau ốm; giặt giũ, đi chợ, nấu ăn; dọn dẹp nhà cửa… Chính những công việc này đã chiếm rất nhiều thời gian, sức lực của phụ nữ. Do đó, cơ hội tham gia vào thị trường lao động của phụ nữ rất thấp. Điều này dẫn đến thực tế là phụ nữ không trực tiếp lao động tạo thu nhập cho gia đình. Hệ quả là địa vị thấp kém và không có tiếng nói ngay trong gia đình của mình. Những phụ nữ được tham gia vào thị trường lao động thì tình hình cũng ít được thay đổi. Họ luôn phải đối mặt với áp lực công việc ngoài xã hội và công việc gia đình. Việc kết hợp hài hòa giữa chăm sóc gia đình, nuôi dạy con với nâng cao địa vị xã hội – nghề nghiệp là khó khăn lớn mà phụ nữ ngày nay phải đối mặt.

Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân công lao động theo giới. Khi trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng và sở thích của mình, trực tiếp tạo thu nhập. Từ đó, phụ nữ có khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, có tiếng nói trong gia đình. Điều đó, mang lại cho phụ nữ sự tự tin và địa vị của họ trong gia đình được nâng cao.

Như vậy, xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới là tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ, phát huy khả năng của phụ nữ cho sự phát triển kinh tế gia đình, nâng cao địa vị của phụ nữ. Gia đình có vai trò quyết định trong việc xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới, góp phần xóa bỏ phân công lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện bình đẳng giới một cách hiệu quả.

 

2.2. Gia đình có thể quyết định đầu tư các nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giữa nam và nữ

Con người đưa ra hầu hết những quyết định cơ bản của cuộc sống trong phạm vi gia đình, trong đó có việc đầu tư cho tương lai. Nguồn lực được phân bổ như thế nào giữa con trai và con gái, giữa vợ và chồng, mỗi người tùy thuộc vào giới tính của mình được trao quyền đến đâu, kỳ vọng của cha mẹ đối với con trai, con gái, của vợ, chồng đối với nhau có khác nhau hay không… Tất cả những điều này sẽ tạo ra và khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự phân biệt giới. Định kiến giới đã dẫn đến người vợ và trẻ em gái ít có cơ hội được đầu tư cho sự phát triển con người hơn. Đa số các gia đình cho rằng, đầu tư cho người vợ và trẻ em gái thu được ít lợi suất cho gia đình hơn là đầu tư cho người chồng và trẻ em trai. Do vậy, tình trạng thất học, không được chăm sóc sức khỏe ở trẻ em gái cao hơn so với trẻ em trai. Trong quan hệ vợ chồng cũng tương tự, người vợ ít được đầu tư cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe hơn so với người chồng. Gia đình là nơi đầu tiên xóa bỏ định kiến giới, làm thay đổi các quyết định đầu tư bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc đầu tư các nguồn lực của gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái sẽ tạo cơ hội cho nam giới và nữ giới cùng được học tập nâng cao trình độ (văn hóa, nghề nghiệp), tiếp cận thông tin và khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe. Từ đó, tạo điều kiện cho nữ giới có đủ khả năng về tri thức, sức khỏe tham gia thị trường lao động, kể cả thị trường lao động đòi hỏi trình độ cao.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu xã hội học cho thấy, người vợ có học vấn cao và hiểu biết xã hội rộng sẽ tác động tốt đến việc nuôi dạy con. Học vấn của người mẹ sẽ làm cải thiện chế độ dinh dưỡng của con cái, thông qua chất lượng chăm sóc mà người mẹ dành cho con. Nghiên cứu các nước đang phát triển cho thấy, mối quan hệ ngược chiều mạnh giữa số năm đi học bình quân của người mẹ với tỷ lệ tử vong của trẻ. Điều tra về nhân khẩu và sức khỏe mới nhất tại hơn 40 nước đang phát triển cho thấy tử vong của trẻ dưới 5 tuổi thấp hơn tại các gia đình mà người mẹ có đi học tiểu học so với gia đình mà người mẹ không đi học, và còn thấp hơn nữa ở các gia đình mà người mẹ học đến trung học. Phụ nữ có học vấn cao hơn dường như sử dụng các dịch vụ chăm sóc con cái chính quy và đưa con đi tiêm chủng đầy đủ(1). Các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới đều cho thấy trình độ của người mẹ quyết định đến sự thành công của con trong học vấn và sự nghiệp. Những người mẹ “thông minh” sẽ dạy con với những phương pháp thông minh nhất và kết quả là con của họ cũng thành những người “thông minh”. Bên cạnh đó, vai trò cá nhân của người mẹ trong những năm đầu đời của đứa trẻ là con đường chính để bất bình đẳng giới có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau. Dinh dưỡng và sức khỏe của người mẹ kém có thể có những tác hại lớn cho việc mang thai và khả năng nuôi dưỡng con của người mẹ. Sự thất học và phụ thuộc vào người khác của người mẹ sẽ lấy đi sự hiểu biết và sự tự tin, làm suy giảm khả năng nuôi dưỡng và bảo vệ con của người mẹ. Đối với đứa trẻ sống trong đói nghèo ít có khả năng tiếp cận tới sự chăm sóc và phòng bệnh chính quy, thì người mẹ trở thành người bảo vệ đầu tiên và duy nhất. Như vậy, sức khỏe, học vấn, khả năng quyết định của người mẹ, nhận thức của người mẹ về giới… có vai trò quan trọng đối với việc sinh con (số con, khoảng cách giữa các lần sinh), cách nuôi dạy con, nhận thức của các thành viên gia đình về giới và bình đẳng giới… Do vậy, phân bổ nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giới góp phần đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình. Khi hiểu biết, học vấn, sức khỏe của phụ nữ được nâng cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thành viên gia đình, đặc biệt là con cái.
          Như vậy, gia đình phân bổ các nguồn lực đầu tư cho nam giới và nữ giới như nhau chính là biện pháp đảm bảo công bằng giới. Công bằng giới sẽ tiến tới bình đẳng giới. Tuy nhiên, quyết định đầu tư của các gia đình bình đẳng giữa nam và nữ lại được đặt trong khuôn khổ cộng đồng, phản ánh tác động của những động cơ khuyến khích mà thể chế và chính sách đã xác lập. Nền kinh tế quyết định rất nhiều cơ hội mà con người có thể nâng cao mức sống của mình, do đó chính sách và sự phát triển kinh tế có tác động mạnh mẽ đến bình đẳng giới. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, thì cha mẹ sẽ phải cân nhắc xem đầu tư cho con trai hay cho con gái đem lại hiệu quả kinh tế hơn; con trai hay con gái có cơ hội tham gia vào quá trình lao động trình độ cao để tăng thu nhập hơn… Do vậy, gia đình có thể đưa ra các quyết định đầu tư nguồn lực bình đẳng giữa nam và nữ cần phải có nhận thức đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược và vì lợi ích chiến lược của cá nhân, gia đình và xã hội.

2.3. Gia đình không có bạo lực – tiền đề quan trọng tiến tới bình đẳng giới

“Gần như tất cả hành động bạo lực ngoài chiến tranh có thể được coi liên quan tới giới”(2). Vai trò giới và những kỳ vọng về giới tạo ra sự tương tác và hành vi dẫn đến bạo lực. Sự kỳ vọng vào vai trò trụ cột của đàn ông trong việc đảm bảo cuộc sống của các thành viên gia đình và là người quyết định các vấn đề trong gia đình đã gây áp lực lớn cho người đàn ông. Khi nền kinh tế chuyển đổi hoặc có sự thay đổi trực tiếp trong công việc dẫn đến không còn khả năng kiếm tiền thì nhiều người cảm thấy bất lực, rơi vào tình trạng nghiện rượu, hành hạ vợ con, ly hôn… Đồng thời, quan niệm về vai trò là người “nối dõi” của nam giới ở các nước phương Đông đã dẫn đến tình trạng “trọng nam, khinh nữ” tồn tại dai dẳng. Điều đó dẫn đến hệ quả là lựa chọn giới tính thai nhi; phân biệt đối xử giữa con trai, con gái; hành hạ, ngược đãi con gái; con gái không được đi học… Trong bối cảnh mà nạn bạo lực gia đình diễn ra trên toàn cầu mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ thì có thể thấy gia đình là nơi tập trung chủ yếu nhất của sự áp bức đối với phụ nữ. Do vậy, hướng tới gia đình không có bạo lực là một trong những mục tiêu của bình đẳng giới. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi thành viên gia đình phải tôn trọng các quyền cá nhân của các thành viên khác đã được pháp luật công nhận. Mặt khác, mỗi thành viên gia đình phải được đối xử công bằng. Mọi hành vi phân biệt dựa trên cơ sở giới đều được xóa bỏ.

Tóm lại: Vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Do đó, bình đẳng giới trở thành trung tâm của phát triển, là một mục tiêu phát triển, là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà nước có hiệu quả. Thiên vị và bất bình đẳng giới gây tổn hại đến thế hệ tương lai và làm cho sự chênh lệch giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội trở nên dai dẳng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá nhân và của đất nước. Theo các kết quả nghiên cứu, ba yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến bình đẳng giới là: Các thể chế (gồm các chuẩn mực xã hội, luật pháp và thị trường); gia đình; nền kinh tế. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố gia đình tác động trực tiếp và thường xuyên nhất. Vì vậy, gia đình là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc cách mạng về giới. Con đường nhận thức và hành động vì sự bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Bất bình đẳng giới là nguồn gốc cơ bản về lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần trở thành xung đột và kéo theo hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và gia đình. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là giải phóng phụ nữ - giải phóng một nửa của xã hội và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới. Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.

Ngày 10/8/2021 và ngày 20/8/2021:

 

Bài tuyên truyền nguyên nhân và hình phạt cho việc xâm hại trẻ em.

 

Trong mấy năm gần đây, những vụ án gây chấn động dư luận về tội phạm xâm hại tình dục ở trẻ em khiến người dân vô cùng bức xúc, đặc biệt những nạn nhân bị xâm hại còn quá nhỏ tuổi, trước đây người bị xâm hại thường từ 13-18 tuổi thì nay xuất hiện nhiều vụ việc chỉ mới ở lứa từ 2-13 tuổi. Theo thống kê của Hiệp hội Quốc gia Phòng Chống Bạo hành trẻ em (NSPCC) độ tuổi trung bình của trẻ em bị xâm hại tình dục là 9 tuổi và cứ 4 bé gái thì có 1 bé bị xâm hại tình dục, 6 bé trai thì có 1 bé bị xâm hại tình dục.Trong đó có hơn 93% nạn nhân và gia đình có quen biết kẻ xâm hại mình, hơn 47% kẻ xâm hại là những người thân, họ hàng, hàng xóm xung quanh gia đình nạn nhân

Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ngày càng tăng cao:

Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của gia đình trong việc bảo vệ chính những đứa con thân yêu của mình. Việc cha mẹ sao nhãng, bỏ mặc con cái ở một số gia đình chính là mầm mống nảy sinh các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Đặc biệt hiện này, tình trạng cha mẹ ly hôn, ly thân hay mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em không muồn nói chuyện với cha mẹ, thâm chí bỏ học, lang thang và bị xâm hại tình dục.

Thứ hai, trẻ em ở nhà một mình, đi đâu đó một mình nơi vắng là nguyên nhân trực tiếp và tạo điều kiện cho những kẻ xấu có hành vi xâm hại tình dục (chiếm trên 50% số vụ trẻ bị xâm hại).

Thứ ba, thực trạng rất đau lòng hiện này là có những cháu bị xâm hại tình dục nhưng không hề biết việc mình bị xâm hại. Đó là do bản thân cha mẹ không nhận thức được các trường hợp nguy cơ cao trẻ bị xâm hại, đa phần cha mẹ vẫn còn e ngại, thậm chí không dạy trẻ biết được những bộ phận nào trên cơ thể mà người khác không được động vào, gia đình và nhà trường không trang bị cho các cháu những kiến thức nền tảng để hiểu rõ về cơ thể mình, những biện pháp để các cháu có thể phòng tránh và tự bảo vệ chính mình.

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất là sự xuất hiện của những ấn phẩm, trò chơi, thông tin trên mạng Internet, phim ảnh ngoài luồng có tính chất bạo lực và khiêu dâm đã góp phần dẫn đến nguy cơ trẻ bị xâm hại.

Thứ hai là các quy định trong hệ thống luật pháp chưa đưa ra và xử lý các hành vi xâm hại tình dục trẻ em còn chưa được đồng bộ, cụ thể như  pháp luật không có quy định những hành vi như nhìn, ngắm, vuốt ve, sờ mó, ôm ấp… là hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Trong khi, đó chính là nguồn cơn dẫn đến việc số lượng trẻ em bị xâm hại tình dục.

Thứ ba là công tác truyền thông, giáo dục và vận động xã hội để bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa thực sự hiệu quả đã dẫn đến hệ lụy xấu đến trẻ em.

Thứ tư là khi xã hội bước vào gia đoạn phát triển nóng sẽ có nhiều vấn đề liên quan tới con trẻ như có nhiều thông tin có thể dễ kích động cũng như kích động tới phần con trong con người, khiến cho một người bình thường nhưng vào một lúc nào đó, phần con trỗi dậy khiến bản thân họ không thể cưỡng lại được và gây nên những hành vi đồi bại, suy đạo đức. Hay do những người đàn ông  mắc bệnh, có những thói quen và hành vi đồi bại với trẻ em

Tình trạng xâm hại tình dục trẻ em tăng cao – Phân tích nguyên nhân và những hình phạt đích đáng

TS tâm lý Nguyễn Minh Thảo – ĐHQG Hà Nội cũng cho biết: “Tâm lý của người Á Đông thường kín đáo, không muốn nhiều người biết chuyện đời tư nên hầu hết các vụ hiếp dâm cũng như xâm hại tình dục trẻ em ít bị gia đình tố cáo. Họ sợ ảnh hưởng đến tương lai con gái khi tất cả mọi người đều biết. Điều này đã dẫn đến những hậu quả là càng ngày càng nhiều kẻ phạm tội thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Mặt khác, trong một số trường hợp, khi bị hiếp dâm, do xấu hổ nên nạn nhân không tố cáo ngay. Sau khoảng thời gian dài, nạn nhân mới dần lấy lại trạng thái tĩnh tâm và làm đơn tố cáo. Trong những trường hợp này việc thu thập chứng cứ cũng như xử lý rất khó khăn, phức tạp.”.

Hình phạt theo bộ luật hình sự Việt Nam:

Trong từng trường hợp phạm tội, tùy thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể, tương ứng với mỗi tội danh mà Bộ luật Hình sự hiện hành quy định mức hình phạt khác nhau:

  • Thấp nhất từ 6 tháng đến 3 năm tù, Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ7 năm đến 12 năm (Tội dâm ô với trẻ em – Điều 116);
  • Cao nhất có thể lên đến tù chung thân, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm (Tội cưỡng dâm trẻ em – Điều 114) hoặc tử hình (Tội  hiếp  dâm trẻ em – Điều 112).

Còn trong Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

  • Thấp nhất từ 6 tháng đến 3 năm tù và khung hình phạt cao nhất của tội này đến 12 năm, kèm theo những hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong 1-5 năm ( Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi – Điều 146, tội Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm – Điều 147)
  • Cao nhất trong khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình nếu bị xác định có tính chất loạn luân, làm nạn nhân có thai, phạm tội hai lần trở lên, có tổ chức, nhiều người hiếp một người, hoặc phạm tội với người dưới 10 tuổi, làm nạn nhân chết hoặc tự sát (tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi – Điều 144, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi – Điều 142)

Như vậy, Bộ luật hình sự của nước ta quy định khá nặng về tội danh xâm hại tình dục trẻ em. Nhìn chung, khung hình phạt rất cao, cao nhất có thể là án tử hình tuy nhiên về công tác thực thi pháp luật, công tác điều tra, khởi tố để luận tội cho những tội phạm này còn nhiều hạn chế.

Pháp luật dù quy định hình phạt rất nặng nhưng khi đưa vào thực tiễn lại chưa đủ tính răn đe do nhưng kẻ phạm tội không hiểu rõ pháp luật, công tác thực thi còn kém hiệu quả, nhiều vụ án còn bị che đậy bởi những mối quan hệ với người có chức quyền nên rơi vào quên lãng… Vì vậy, để bộ luật hình sự thực sự có hiệu quả, trở thành 1 công cụ răn đe hữu hiệu thì các cơ quan có thẩm quyền nên làm tốt công tác đưa pháp luật đến từng địa bàn phổ biến cho nhân dân, thực hiên tốt việc thi hành pháp luật để xử lý đúng người đúng tội.

 

Tháng 9: 05/9/2021

 

Bài tuyên truyền về Tài liệu bình đẳng giới

 

Bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, ngày 29/11/2006, tại kỳ họp thứ 10 Quốc Hội khóa XI, Quốc hội đã thông qua Luật Bình dẳng giới. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, cũng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Với mong muốn góp phần vào việc phổ biến, tuyên truyền về bình đẳng giới và pháp luật về bình đẳng giới giúp cho đông đảo quần chúng nhân dân hiểu rõ thêm về bình đẳng giới, chúng tôi xin giới thiệu tài liệu hỏi-đáp về bình đẳng giới. 

Câu 1. Hỏi: “Bình đẳng giới” theo quy định của Luật Bình đẳng giới được hiểu như thế nào?

Đáp:Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Như vậy:

- Bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội; Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng của phụ nữ và nam giới hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau.

 - Bình đẳng giới có nghĩa là nam và nữ đều có thể có nhữngđiều kiện bình dẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi công bằng từ công cuộc phát triển quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và ngay trong gia đình.

- Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau mà là các đặc điểm giống nhau mà là các đặc điểm giống nhau và khác biệt giữa nam và nữ được công nhận và có giá trị như nhau.

- Bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được hưởng các thành quả lao động một cách bình đẳng.

Câu 2. Hỏi: Bình đẳng giới và bạo lực gia đình có mối liên quan gì với nhau không?

Đáp:Bạo lực gia đình đã và đang trở thành một vấn đề xã hội nhức nhối làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việ Nam, gây ra những hậu quả về xã hội, đạo đứcvà sự bền vững của gia đình, đồng thời có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế... Bất bình đẳng gới là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thực trạng bạo lực gia đình. Từ sự bất bình đẳng giới trong xã hội mà đối tượng chịu sự bất bình đẳng chủ yếu là phụ nữ đã làm cho người phụ nữ thường ở vị trí yếu thế, phụ thuột vào nam giới về kinh tế, văn hóa, giáo dục...

 Những định kiến giới như chồng có quyền dạy vợ; chồng có thể chơi bời nhưng vợ thì phải đoan trang..., hay những các quan niệm bất bình đẳng giới khác về vai trò của nam và nữ đã làm cho phụ nữ trở thành nhóm có nguy cơ bị bạo lực gia đình cao. Vì vậy, bạo lực gia đình và bình đẳng giới là hai vấn đề có liên quan trục tiếp đến nhau. Muốn xóa bỏ hoặc hạn chế bạo lực gia đình thì phải loại trừ các nguyên nhân gốc rễ gây ra nó, trong đó có nguyên nhân quan trọng là tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình và trong xã hội.

Câu 3. Hỏi: Bình đẳng giới có những mục tiêu gì?

Đáp:Luật Bình đẳng giới quy định các mục tiêu bình đẳng giới cơ bản của Nhà nước ta là:

- Xóa bỏ phân biệt đối xử về giới: phụ nữ và nam giới không bị phân biệt đối xử trong gia đình, ở nơi làm việc, trong xã hội do các định kiến giới.

- Tạo cơ hội như nhâu cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Ví dụ: trong lĩnh vực chính trị phụ nữ và nam giới đều được tạo cơ hội ngang nhau trong việc đề bạt, bổ nhiệm vào cương vị lãnh đạo của cơ quan, tổ chức; trong lĩnh vực kinh tế, được tạo cơ hội ngang nhau trong thành lập doanh nghiệp, tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh,...

- Tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ. Bình đẳng giới thực chất có nghĩa là bình đẳng giới không chỉ dừng lại ở các quy định pháp luật, các văn bản, chính sách của Đảng và Nhà nước mà phải được triển khai thực tế, thấm nhuần vào tư tưởng và hành động của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức.

- Thiết lập, cũng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình: trên cơ sở hiểu biết về giới, thừa nhận vị trí, vai trò, đặc điểm của nam và nữ mà có sự hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau giữa hai giới.

Câu 4. Hỏi: Các hành vi nào được xem là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình?

Đáp:Điều 41 của Luật Bình đẳng giới quy định về những hành vi bị xem là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình bao gồm:

- Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hô gia đình vì ý do giới tính. Ví dụ: ngăn cản vợ định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng, không cho con dâu được mang tài sản thuộc sở hữu chung đi khỏi nhà chồng khi chồng chết...

- Không cho phép hoặc cản trở các thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới. Ví dụ: không cho vợ và con giái tham gia ý kiến vào việc sử dụng các tài sản chung trong gia đình, ngăn cản vợ đi làm để có thêm thu nhập...

- Đối sử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. Ví dụ: không cho con gái tham gia các hoạt động xã hội, quan tâm và dành nhiều ưu tiên cho con trai hơn con gái...

- Hạn chế việc đi học hoặc ép buột thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính. Ví dụ: chồng hặc gia đình chồng ngăn cản việc học lên cao của người vợ vì cho rằng phụ nữ sinh ra để phục vụ chồng con và nên “thấp hơn chồng một cái đầu”

- Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới tính nhất định. Ví dụ: buộc vợ phải ở nhà làm công việc nội trợ và chăm sóc gia đình, buột vợ đẻ thêm con, buộc vợ phải áp dụng một biện pháp tránh thai nhất định hoặc ngăn cản vợ thực hiện các bện pháp tránh thai...

 

 

 

 

 

Ngày 10/09/2021 và 22/9/2021:

 

 Bài tuyên truyền nguyên nhân và hình phạt cho việc xâm hại trẻ em.

 

 Trong mấy năm gần đây, những vụ án gây chấn động dư luận về tội phạm xâm hại tình dục ở trẻ em khiến người dân vô cùng bức xúc, đặc biệt những nạn nhân bị xâm hại còn quá nhỏ tuổi, trước đây người bị xâm hại thường từ 13-18 tuổi thì nay xuất hiện nhiều vụ việc chỉ mới ở lứa từ 2-13 tuổi. Theo thống kê của Hiệp hội Quốc gia Phòng Chống Bạo hành trẻ em (NSPCC) độ tuổi trung bình của trẻ em bị xâm hại tình dục là 9 tuổi và cứ 4 bé gái thì có 1 bé bị xâm hại tình dục, 6 bé trai thì có 1 bé bị xâm hại tình dục.Trong đó có hơn 93% nạn nhân và gia đình có quen biết kẻ xâm hại mình, hơn 47% kẻ xâm hại là những người thân, họ hàng, hàng xóm xung quanh gia đình nạn nhân

Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ngày càng tăng cao:

Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của gia đình trong việc bảo vệ chính những đứa con thân yêu của mình. Việc cha mẹ sao nhãng, bỏ mặc con cái ở một số gia đình chính là mầm mống nảy sinh các hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Đặc biệt hiện này, tình trạng cha mẹ ly hôn, ly thân hay mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em không muồn nói chuyện với cha mẹ, thâm chí bỏ học, lang thang và bị xâm hại tình dục.

Thứ hai, trẻ em ở nhà một mình, đi đâu đó một mình nơi vắng là nguyên nhân trực tiếp và tạo điều kiện cho những kẻ xấu có hành vi xâm hại tình dục (chiếm trên 50% số vụ trẻ bị xâm hại).

Thứ ba, thực trạng rất đau lòng hiện này là có những cháu bị xâm hại tình dục nhưng không hề biết việc mình bị xâm hại. Đó là do bản thân cha mẹ không nhận thức được các trường hợp nguy cơ cao trẻ bị xâm hại, đa phần cha mẹ vẫn còn e ngại, thậm chí không dạy trẻ biết được những bộ phận nào trên cơ thể mà người khác không được động vào, gia đình và nhà trường không trang bị cho các cháu những kiến thức nền tảng để hiểu rõ về cơ thể mình, những biện pháp để các cháu có thể phòng tránh và tự bảo vệ chính mình.

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất là sự xuất hiện của những ấn phẩm, trò chơi, thông tin trên mạng Internet, phim ảnh ngoài luồng có tính chất bạo lực và khiêu dâm đã góp phần dẫn đến nguy cơ trẻ bị xâm hại.

Thứ hai là các quy định trong hệ thống luật pháp chưa đưa ra và xử lý các hành vi xâm hại tình dục trẻ em còn chưa được đồng bộ, cụ thể như  pháp luật không có quy định những hành vi như nhìn, ngắm, vuốt ve, sờ mó, ôm ấp… là hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Trong khi, đó chính là nguồn cơn dẫn đến việc số lượng trẻ em bị xâm hại tình dục.

Thứ ba là công tác truyền thông, giáo dục và vận động xã hội để bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa thực sự hiệu quả đã dẫn đến hệ lụy xấu đến trẻ em.

Thứ tư là khi xã hội bước vào gia đoạn phát triển nóng sẽ có nhiều vấn đề liên quan tới con trẻ như có nhiều thông tin có thể dễ kích động cũng như kích động tới phần con trong con người, khiến cho một người bình thường nhưng vào một lúc nào đó, phần con trỗi dậy khiến bản thân họ không thể cưỡng lại được và gây nên những hành vi đồi bại, suy đạo đức. Hay do những người đàn ông  mắc bệnh, có những thói quen và hành vi đồi bại với trẻ em

Tình trạng xâm hại tình dục trẻ em tăng cao – Phân tích nguyên nhân và những hình phạt đích đáng

TS tâm lý Nguyễn Minh Thảo – ĐHQG Hà Nội cũng cho biết: “Tâm lý của người Á Đông thường kín đáo, không muốn nhiều người biết chuyện đời tư nên hầu hết các vụ hiếp dâm cũng như xâm hại tình dục trẻ em ít bị gia đình tố cáo. Họ sợ ảnh hưởng đến tương lai con gái khi tất cả mọi người đều biết. Điều này đã dẫn đến những hậu quả là càng ngày càng nhiều kẻ phạm tội thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Mặt khác, trong một số trường hợp, khi bị hiếp dâm, do xấu hổ nên nạn nhân không tố cáo ngay. Sau khoảng thời gian dài, nạn nhân mới dần lấy lại trạng thái tĩnh tâm và làm đơn tố cáo. Trong những trường hợp này việc thu thập chứng cứ cũng như xử lý rất khó khăn, phức tạp.”.

Hình phạt theo bộ luật hình sự Việt Nam:

Trong từng trường hợp phạm tội, tùy thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể, tương ứng với mỗi tội danh mà Bộ luật Hình sự hiện hành quy định mức hình phạt khác nhau:

  • Thấp nhất từ 6 tháng đến 3 năm tù, Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ7 năm đến 12 năm (Tội dâm ô với trẻ em – Điều 116);
  • Cao nhất có thể lên đến tù chung thân, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm (Tội cưỡng dâm trẻ em – Điều 114) hoặc tử hình (Tội  hiếp  dâm trẻ em – Điều 112).

Còn trong Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

  • Thấp nhất từ 6 tháng đến 3 năm tù và khung hình phạt cao nhất của tội này đến 12 năm, kèm theo những hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong 1-5 năm ( Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi – Điều 146, tội Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm – Điều 147)
  • Cao nhất trong khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình nếu bị xác định có tính chất loạn luân, làm nạn nhân có thai, phạm tội hai lần trở lên, có tổ chức, nhiều người hiếp một người, hoặc phạm tội với người dưới 10 tuổi, làm nạn nhân chết hoặc tự sát (tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi – Điều 144, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi – Điều 142)

Như vậy, Bộ luật hình sự của nước ta quy định khá nặng về tội danh xâm hại tình dục trẻ em. Nhìn chung, khung hình phạt rất cao, cao nhất có thể là án tử hình tuy nhiên về công tác thực thi pháp luật, công tác điều tra, khởi tố để luận tội cho những tội phạm này còn nhiều hạn chế.

Pháp luật dù quy định hình phạt rất nặng nhưng khi đưa vào thực tiễn lại chưa đủ tính răn đe do nhưng kẻ phạm tội không hiểu rõ pháp luật, công tác thực thi còn kém hiệu quả, nhiều vụ án còn bị che đậy bởi những mối quan hệ với người có chức quyền nên rơi vào quên lãng… Vì vậy, để bộ luật hình sự thực sự có hiệu quả, trở thành 1 công cụ răn đe hữu hiệu thì các cơ quan có thẩm quyền nên làm tốt công tác đưa pháp luật đến từng địa bàn phổ biến cho nhân dân, thực hiên tốt việc thi hành pháp luật để xử lý đúng người đúng tội.

 

Tháng 10: 05/10/2021; 20/10/2021

 

BÀI TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM 20/10

 

Ngày 20/10 hàng năm được chọn là Ngày Phụ Nữ Việt Nam, đó là sự ghi nhận của đất nước với những con người được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: “Cần cù, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”. Cho đến bây giờ ngày thành lập hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã trải qua 90 năm, và năm nào cũng vậy vào ngày này chị em phụ nữ đều nhận được những tình cảm cao đẹp nhất.

Nhân dịp Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam xin được ôn lại lịch sử ra đời ngày 20/10 - ngày phụ nữ Việt Nam.

Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước  của dân tộc ta là một chặng đường dài, đầy gian nan thử thách nhưng cũng đầy oanh liệt, với những chiến công chói ngời. Ở đó con người Việt  Nam - một nửa là phụ nữ  được tôi luyện và trưởng thành, ngày càng khẳng định những phẩm chất tinh hoa tốt đẹp của dân tộc. Với truyền thống  kiên trì bất khuất chống giặc ngoại sâm với tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, đức tính  đảm đang, trung hậu chịu đựng gian khổ hi sinh  đã làm nên các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tinh thần khí phách của phụ nữ Việt Nam được lịch sử ghi dấu bằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng mở đầu cho ý chí bất khuất. Dưới chế độ thực dân phong kiến và đế quốc phụ nữ là lớp người bị áp bức bóc lột phải chịu nhiều  bất công nên luôn có nhu cầu được giải  phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng.

Xuất phát từ thực tế lịch sử  của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã nhận thấy vai trò lớn của Phụ nữ, người viết  trong tác phẩm” Đường cách mệnh năm 1927” Việt Nam cách mệnh cũng phải  có nữ giới tham gia mới thành công”.

Ngay sau khi Đảng ta ra đời  3/2/1930 mở ra một bước ngoặt quyết định cho phong trào phụ nữ ở thời kỳ này  nhiều tổ chức phụ nữ được hình thành  và phát triển tại các địa phương như : Hội phụ nữ giải phóng 1930-1935 , hội phụ nữ dân chủ  1936-1938 . Hội phụ nữ phản đế đông dương 1939, đoàn phụ nữ cứu quốc 1941… Trước vận mệnh của dân tộc nhiều phụ nữ đã tình nguyện thoát ly gia đình  tích cực tham gia vào các hoạt động cách mạng, gây dựng cơ sở nuôi dấu, bảo vệ cán bộ, Đảng viên trực tiếp tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, các đội tự vệ, vũ trang tuyên truyền…. góp phần không nhỏ vào thắng lợi của khởi nghĩa cách mạng tháng 8/1945.

Sau khi giành được chính quyền phong trào phụ nữ đã hòa nhịp cùng với  nhân dân tập trung sức mạnh  diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hội phụ nữ là lực lượng nòng cốt tham gia vào các phong trào chính phủ phát động như: không bỏ một tấc đất hoang, bình dân học vụ, hũ gạo cứu quốc, bảo trợ thiếu nhi.

Năm 1946  các tổ chức hội phụ nữ hoạt động dưới nhiều hình thức như” Phụ nữ tiền phong, phụ nữ cao đài, phụ nữ dân chủ, phụ nữ hiệp hội”. Cùng thời gian này có 02 tổ chức Hội song song tồn tại đó là : Đoàn phụ nữ cứu quốc và Hội LHPN Việt Nam, nhưng đều có chung mục tiêu hoạt động là  “ Đoàn kết giác ngộ các tầng lớp phụ nữ tham gia vào công cuộc cách mạng dân tộc”. Tháng 4/1950 Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất đã hợp nhất 2 tổ chức: Đoàn phụ nữ cứu quốc và Hội LHPN Việt Nam thành một tổ chức là Hội LHPN Việt Nam.

Trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã nêu biết bao tấm gương sáng ngời với những phẩm chất cao quý về lòng trung thành với Tổ quốc, về tinh thần hi sinh dũng cảm quyết tâm bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng kể cả trong những hoàn cảnh hiểm nghèo nhất, các chị Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi Bùi Thị Cúc, Hoàng Ngân , Lê Thị Riêng, Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Định và biết bao nữ anh hùng, liệt sỹ mãi mãi là những con người ưu tú  của dân tộc Việt Nam, tên tuổi của các chị đã được khắc ghi trong lịch sử  đấu tranh cách mạng hào hùng  của dân tộc và luôn gắn liền  với lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam , các thế hệ phụ nữ Việt Nam  ngày nay tự hào có hàng triệu bà mẹ đã hi sinh, nuôi dưỡng các thế hệ anh hùng, hiến dâng cho Tổ quốc những người con thân yêu nhất của mình, những người đã làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc, làm rạng rỡ cho non sông, đất nước ta. Đúng như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “ Non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ.”

Hưởng ứng lời kêu gọi “ Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí  Minh” Hội LHPN Việt Nam đã phát động các phong trào như “ Phụ nữ tham gia sản xuất thực hành tiết kiệm, phụ nữ học cày, học bừa. Ở vùng tạm chiến có phong trào “ Chống bắt linh “ vận động binh lính trở lại quê hương” đóng góp của phụ nữ ở hậu phương và cả tiền tuyến từ bắc đến nam từ thành thị đến nông thôn đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.

Khi đất nước thống nhất đi lên CNXH từ ngày 10-12/6/1976  tại thành phố HCM, hội nghị thống nhất Hội LHPN Việt Nam và hội LHPN giải phóng miền nam Việt Nam với tên gọi chung là  Hội LHPN Việt Nam lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập hội. Từ đây phụ nữ Việt Nam đã có tổ chức riêng  của mình, có vị trí trong lịch sử  của dân tộc.

Phát huy truyền thống  phụ nữ Việt Nam  “Anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang” bước vào công cuộc đổi mới đất nước. Hội LHPN xã đã nhanh chóng  đổi mới nội dung phương thức hoạt động cho phù hợp với nhiệm vụ  của giai đoạn mới  đáp ứng nhu cầu nguyện vọng bức thiết  của các tầng lớp phụ nữ, các phong trào thi đua “ Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, giúp nhau xóa đói giảm nghèo”, “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, phong trào “giỏi việc nước, đảm  việc nhà”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, “chung tay xây dựng nông thôn mới”,  Các chương trình công tác trọng tâm của hội đã có tác dụng động viên lôi cuốn đông đảo các tầng lớp phụ nữ tham gia  đem lại hiệu quả thiết thực trong đời  sống  xã hội, xứng đáng là phụ nữ Việt Nam “ Tự tin – Tự trọng-  Trung hậu- Đảm đang”  trong thời kỳ đổi mới.

     Với những thành tích và sự đóng góp thiết thực của phong trào phụ nữ trong suốt thời gian qua, Hội LHPN xã Kim Tân, các tập thể, cá nhân, cán bộ hội viên đã được TW Hội LHPN Việt Nam, UBND tỉnh, UBND huyện, Hội LHPN huyện Kim Sơn tặng nhiều bằng khen, giấy khen các loại.

 

Ngày 10/10/2021 và 22/10/2021

 

Bài tuyên truyền tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

 

Trung bình cứ mỗi 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại tình dục. Đa số thủ phạm là người quen của nạn nhân.

Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không được thống kê.

Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 - 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%. Số liệu thống kê năm 2016 của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an cho thấy, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội trên toàn quốc đã phát hiện hơn 1373 vụ xâm hại tình dục trẻ em, với hơn 1352 đối tượng; trong đó đã khởi tố hàng trăm vụ án hiếp dâm trẻ em (chiếm 30,1%), với 438 bị can (chiếm 32,3%); 465 vụ án giao cấu với trẻ em (chiếm 33,8%), với 461 bị can (chiếm 34,1%). Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong 5 năm (từ năm 2012 - 2016), Tòa án các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 9.305 vụ với 10.656 bị cáo. Trong đó, đưa ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm 8.674 vụ (chiếm 93,2%), với 9.873 bị cáo (chiếm 92,65%).

Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng xâm hại tình dục trẻ em

Thứ nhất, do các bậc cha mẹ, gia đình, người chăm sóc trẻ thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý trẻ em, thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu sự quan tâm chia sẻ vấn đề giới tính với trẻ em. Từ đó, dẫn tới các em thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, về kiến thức, kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục.

Thứ hai, công tác truyền thông, giáo dục, vận động xã hội về bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa hiệu quả. Trẻ chưa dược hướng dẫn những kiến thức, kỹ năng cần thiết để phòng tránh bị xâm hại tình dục; các em khi bị xâm hại tình dục đa phần đều có tâm lý sợ hãi, mặc cảm, tự ti, nên không dám chia sẻ, không dám tố giác kẻ phạm tội. Còn cha mẹ ít chủ động dạy con kỹ năng tự bảo vệ, và đôi khi vì e ngại ảnh hưởng đến tương lai của con em mình nên cũng không tố giác kẻ phạm tội.

Thứ ba, khoảng trống trong hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ trẻ em và sự hạn chế cả về năng lực, số lượng lẫn quyền hạn pháp lý của hệ thống cán bộ và mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cơ sở cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bị xâm hại tình dục gia tăng.

Hiện, chúng ta vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em. Quy định cụ thể đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin và phối hợp xác minh, điều tra về hành vi xâm hại trẻ em còn thiếu. Quy định về việc tách trẻ em ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp chính cha mẹ, người chăm sóc có hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em chưa có...

Giải pháp phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục

+ Nhóm các giải pháp về tâm lý: Cần an ủi, động viên người bị xâm hại “tiếp tục bước đi là việc làm cần thiết để có thể chữa lành vết thương”; và tránh khơi lại nỗi đau mất mát của trẻ. Nhất là các bậc phụ huynh cần hiểu rõ con cái và giúp phát huy tối đa các phẩm chất. Việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng là công việc mà các bậc phụ huynh phải làm.

+ Nhóm các giải pháp về xã hội – cơ chế pháp lý – chính sách

– Tăng cường phối hợp giáo dục, quản lý chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.

– Sớm đưa chương trình giáo dục vấn đề xâm hại tình dục, giáo dục giới tính theo từng cấp độ bậc học nhà trường cho phù hợp .

– Kịp thời quy định bổ sung vào Bộ luật hình sự một số tội danh, chẳng hạn như tội: “Quấy rối tình dục trẻ em” để xử lý hình sự đối với một số hành vi liên quan đến việc xâm phạm tình dục trẻ em chưa được điều chỉnh bằng pháp luật hình sự – một trong những công cụ pháp luật có tính răn đe hiệu quả nhất.

– Giáo dục cho công chúng về những hậu quả tiêu cực của việc xâm phạm tình dục đối với trẻ em; ý thức trách nhiệm phát hiện, trình báo và việc giữ lại bằng chứng để làm cơ sở tố cáo kịp thời kẻ có hành vi xâm hại tình dục. Phổ biến tuyên truyền pháp luật về các quy định liên quan đến việc nghiêm cấm và xử lý các hành vi xâm phạm tình dục.

– Tập huấn các cán bộ thực thi pháp luật, cán bộ xã hội và giám sát viên các kiến thức về nạn xâm hại tình dục và kỷ năng tiếp nhận, theo dõi, điều tra và giải quyết các vụ việc xâm hại tình dục trẻ em một cách hiệu quả và phù hợp với  tâm lý trẻ em.

– Tăng cường tư vấn, trợ giúp và hỗ trợ về mặt xã hội cho các nạn nhân cũng như gia đình của họ.

– Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng (nhất là các cơ quan tư pháp: Công an- Viện Kiểm sát –Toà án) trong việc phát hiện, điều tra và  xử lý nghiêm minh đối với các hành vi liên quan đến việc xâm phạm tình dục trẻ em và có cơ chế bảo vệ nạn nhân cũng như người tố cáo đễ họ mạnh dạn khai báo, tố cáo.

– Tiếp tục tăng cường các chiến lược cũng như chương trình quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục và buôn bán trẻ em.

– Hình thành một cơ chế thu thập số liệu về các thủ phạm và nạn nhân của những vụ xâm phạm tình dục trẻ em, phân chia theo giới tính, độ tuổi, nhằm đánh giá đầy đủ về tình trạng này và đề ra các chính sách, chương trình giải quyết vấn đề này.

– Tiến hành khảo sát toàn diện về số lượng trẻ em bị khiếm khuyết về thể chất, không nơi nương tựa; nhằm xây dựng chương trình kế họach bảo vệ và ngăn chặn các hành vi xâm phạm tình dục đối với các đối tượng này.

– Hoàn thiện hệ thống Tòa gia đình và người chưa thành niên với thủ tục tố tụng đặc thù riêng biệt.

 

 

Tháng 11: Ngày 15/11/2021

 

Bài tuyên truyền giới thiệu các quan điểm về bình đẳng giới

 

Bác từng nói: “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

  Trong bản Di chúc, Người viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo.Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên”.

Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến thực hiện mục tiêu về bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp tạo điều kiện cho phụ nữ tiến bộ và tạo được bình đẳng.Quyền của phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị: Hiến pháp(Điều 7, 16 26, 27); Nghị quyết 11 Của Bộ Chính trị;  Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng Giới; Luật Bầu cử; Luật Bình đẳng Giới (Điều 11)

- Trong giai đoạn từ năm 1975 - 1976, số lượng đại biểu nữ đạt mức cao nhất là 32% (khóa v);Giảm còn 24,4% trong năm 2011 (khóa XIII).133 đại biểu nữ / 496 đại biểu (khóa XIV).Tuy nhiên, sự hiện diện, tiếng nói ý kiến, quan điểm của Nữ đại biểu Quốc hội đang ngày càng trở nên quan trọng:

Hiện nay, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị và bộ máy Nhà nước:

  - Ở TW, có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị (Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, TB Dân Vận TW),1 nữ Phó Chủ tịch nước.

  - Ở địa phương, có nhiều đồng chí nữ là Bí thư Tỉnh ủy (Vĩnh Phúc, An Giang, Ninh Bình, Yên Bái), Chủ tịch HĐND (HCM, Hà Nội, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Bình Phước, Bắc Ninh, Bạc Liêu).

Trình bày về các vấn đề của phụ nữ nhiều hơn so với các đại biểu Quốc hội là nam giới: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Đất đai, vấn đề tuổi nghỉ hưu…

Số lượng nữ đại biểu đứng ra bênh vực và bảo vệ cho quyền lợi của phụ nữ nhiều hơn so với nam giới.

Số lần các nữ đại biểu Quốc hội tham gia phản biện luật và chất vấn bộ trưởng ngang bằng so với các đại biểu nam giới.

Những rào cản phụ nữ trong các vị trí quản lý, lãnh đạo

Phụ nữ gặp phải rất nhiều những rào cản trong lĩnh vực chính trị, điều này đã hạn chế cơ hội của họ trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc các vị trí dân cử.

Những rào cản này có thể được chia thành 2 loại:

  - Những rào cản về thể chế.

  - Những rào cản về quan niệm xã hội.

Những rào cản này tác động tới người phụ nữ theo những cách khác nhau và không phải tất cả mọi phụ nữ đều gặp phải các rào cản như nhau.

Rào cản về thể chế:

Sự khác biệt trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo quy định trong bộ Luật Lao động:

- Phụ nữ có thời gian làm việc ngắn hơn, cũng như sẽ có ít thời gian hơn để thăng tiến trong công việc so với các đồng nghiệp là nam giới;

- Hệ quả là các cơ hội thăng tiến, đào tạo, quy hoạch và luân chuyển đều bị hạn chế;

- Phụ nữ cũng có tổng thu nhập thấp hơn so với nam giới;

- Điều đáng nói nhất ở đây chính là việc các cán bộ nữ phải nghỉ hưu khi họ đang trong độ chín về kiến thức và kinh nghiệm.

Cán bộ, công chức nữ sẽ mất cơ hội được đưa vào quy hoạch nếu ở tuổi 46 hoặc mất cơ hội được bổ nhiệm nếu ở tuổi 51 do không đủ tuổi để làm việc thêm 2 nhiệm kỳ (10 năm) hoặc ít nhất một nhiệm kỳ trước nghỉ hưu.

 Hơn nữa, chênh lệch trong tuổi nghỉ hưu cũng làm giảm cơ hội được đào tạo, luân chuyển để trau dồi kinh nghiệm hoặc thăng tiến của nữ giới; dẫn đến khả năng trúng cử thấp hơn so với nam giới.

Bình đẳng Giới

  - Nam giới và nữ giới cùng có điều kiện bình đẳng:

  + Để phát huy hết năng lực, khả năng của mình;

  + Để thực hiện các mong muốn, khát vọng;

  + Để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực  xã hội ;

  + Được hưởng chất lượng cuộc sống, thành quả xã hội một cách bình đẳng;

  + Được tham gia bình đẳng trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội.

- Bình đẳng không có nghĩa là không có sự khác biệt về giới tính, những điểm đặc trưng của nam giới và nữ giới;

  - Bình đẳng không có nghĩa là nam giới và nữ giới giống nhau về mọi mặt.

   * Quan niệm về bình đẳng giới hiện nay là: Sự tương đồng và có khác biệt của giới nam, giới nữ được thừa nhận và được coi trọng như nhau.      

Ranh giới giữa phân biệt đối xữ và văn hóa:

Ranh giới giữa phân biệt đối xữ và văn hóa là mong manh, dễ bị đánh đồng giữa thiên chức, vai trò, trách nhiệm và việc tôn vinh đức tính của người phụ nữ.

  * Thiên chức là giá trị cao quý đặc thù vốn có ở người phụ nữ: Đó làm Mẹ, đó là mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.

  * Trách nhiệm: Xây dựng tổ ấm, chăm lo, nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, quán xuyến nhà cửa, tổ chức sinh họat gia đình, phụ trách chi tiêu, chăm sóc cha mẹ già, làm hậu phương, là chỗ dựa tinh thần cho các thành viên trong gia đình; (là của mọi người cùng nhau chia sẽ).

  * Những đức tính quý báu vốn có ở người phụ nữ như: Sự khéo léo, tinh tế, sự tận tụy hy sinh, lòng bao dung, tình thương yêu chồng con, sự đằm thắm dịu dàng, chịu thương chịu khó, dám đương đầu với những khó khăn gian khổ.

Đằng sau những người đàn ông thành đạt luôn có bóng dáng của những người phụ nữ nhưng đằng sau những người phụ nữ thành công là cả một nghệ thuật”.

Những vấn đề đặt ra:

-> Thứ nhất, những khó khăn về quỹ thời gian và sức khỏe. 

-> Thứ hai, khó khăn trong việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội (đối nội, đối ngoại).

-> Thứ ba, khó khăn trước những định kiến của các thành viên trong gia đình, sự gia trưởng của người chồng.

-> Thứ tư, khó khăn trước việc phấn đấu để đạt được các mục tiêu cao trong công việc và hạnh phúc gia đình.

-> Thứ năm, giải quyết mâu thuẫn giữa mong muốn tham chính với mong muốn phát triển kinh tế gia đình.

Để có thể vượt qua những khó khăn nêu trên, làm tốt vai trò kép của mình, chị em phụ nữ, một mặt phải tự điều chỉnh mình, mặt khác, phải tìm kiếm sự chia sẻ.

Bên cạnh đó, cần phải có những chính sách hỗ trợ để chị em thực hiện tốt cả hai vai trò mà không phải chịu nhiều áp lực.

Kinh nghiệm giải quyết.

- Bố trí công việc giữa gia đình và xã hội cho khoa học.

- Cần dành thời gian cho gia đình và con cái.

- Cần có sự sắp xếp thời gian phù hợp, một khi đã dành thời gian cho gia đình thì nên dành trọn vẹn, không có sự lẫn lộn giữa việc cơ quan và gia đình.

- Biết quản lý tốt thời gian, ứng dụng những tiến bộ khoa học để tổ chức tốt cuộc sống gia đình.

- Phải tự mình thoát ra và vận động các thành viên trong gia đình thoát ra khỏi suy nghĩ "việc nhà là của phụ nữ“.

- Không chỉ người vợ, người mẹ phải quan tâm, chăm sóc chồng, con mà phải tiến tới các thành viên trong gia đình chăm sóc nhau.

- Phụ nữ tham chính cần phải đặt đúng vai của mình ở từng vị trí: Ở cơ quan là đồng nghiệp, là thủ trưởng; ở gia đình phụ nữ là con dâu, là người vợ, là người mẹ...

Cần phải học tập cách giao tiếp để đảm bảo giữ được mối quan hệ hài hòa giữa gia đình và xã hội, trong các mối quan hệ, trong giao tiếp với cấp trên, đối tác

- Sử dụng ưu thế về sự khéo léo, sự dẻo dai, mềm mại của người phụ nữ để thuyết phục, vận động cũng như chia sẻ, tâm sự, tìm sự đồng cảm từ các thành viên trong gia đình.

- Cần phải tạo dựng được niềm tin, sự chia sẻ đối với thành viên trong gia đình.

- Bằng sự quan tâm, chăm sóc thực lòng đối với gia đình, hiểu chồng, chăm sóc cho chồng con đầy đủ; tạo những buổi trò chuyện, những bữa cơm thân mật trong gia đình.

Phụ nữ tham chính cần sức khỏe để làm việc và cần tự tin để giao tiếp xã hội. Vì vậy:

- Cần phải được trang bị những kiến thức về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của mình.

- Cần thiết phải sắp xếp thời gian để luyện tập thể lực, tham gia các chương trình thể thao để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe.

- Có chế độ ăn uống phù hợp, đảm bảo dinh dưỡng, phù hợp lứa tuổi.

- Chị em cũng cần quan tâm đến ngoại hình, cách ăn mặc, không chỉ đẹp, duyên dáng khi đi ra ngoài mà còn phải luôn chỉnh chu trong chính gia đình, đối với người thân của mình.

- Để giảm bớt áp lực về tâm lý, chị em cũng cần có những mối quan hệ thân thiện bên ngoài công việc, bên ngoài (nhóm bạn...), có những khoảng thời gian dành riêng cho mình để chia sẻ và thư giãn.

Tuy nhiên, cũng cần biết giới hạn và cần có sự đồng thuận của các thành viên trong gia đình để những cuộc vui với bạn bè được bổ ích và trọn vẹn.

Để thực hiện bình quyền, bình đẳng nam nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh”.

Bình đẳng thật sự cho phụ nữ phải từ chính nội lực của phụ nữ

Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên, đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”

  Đó là trao đổi của Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa với phóng viên Báo Điện tử Chính phủ nhân kỷ niệm 105 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3.

* Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới đều hạnh phúc (hạnh phúc là trên con đường chúng ta đi luôn có sự đồng hành chia sẽ của cả nam giới và phụ nữ)

- Bình đẳng giới không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới.

- Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.

ĐẤU TRANH VÌ NỮ QUYỀN KHÔNG PHẢI LÀ GHÉT NAM GIỚI

Nam giới vì phụ nữ hay vì những người phụ nữ quanh ta

- Nam giới là đồng minh, là đối tác.

-    Nam giới là một nữa của nhân loại hỗ trợ cho “nữa kia” là phụ nữ vì lợi ích của tất cả.

- Người phụ nữ không nên coi thường mình.

- Người đàn ông cũng phải thấy được giá trị cao quý của người phụ nữ để có thái độ trân trọng và cư xử đúng mực.

Điều quan trọng là thiết lập được các mối quan hệ tốt trên cơ sở của sự hiểu biết, tình yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, đó là con đường hạnh phúc, mục tiêu sau cùng của cuộc sống 

 

Ngày 20/11/2021 và 25/11/2021:

 

Bài tuyên truyền nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề xâm hại trẻ em

 

Tại Hội thảo “Phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường mạng và cơ sở giáo dục” do Đoàn giám sát của Quốc hội “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em” tổ chức, trước thực trạng việc xâm hại trẻ em đang có những diễn biến phức tạp, các đại biểu đã chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất nhiều giải pháp trong thời gian tới.

Bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em là vấn đề xã hội có tính toàn cầu

Thảo luận tại hội thảo, các đại biểu cho rằng, bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em đang là vấn đề xã hội có tính toàn cầu, theo ước tính của tổ chức y tế thế giới (WHO) vào năm 2011 trên phạm vi toàn cầu có khoảng 150 triệu trẻ em gái và 73 triệu trẻ em trai là nạn nhân của bạo lực, xâm hại tình dục; khu vực Châu Á Thái bình dương có tới 71% trẻ em từ 1-14 tuổi chịu kỷ luật bạo lực; Việt Nam khoảng 68,4%.

Thảo luận, các đại biểu cho rằng số liệu thống kê tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong các cơ sở giáo dục vẫn chưa được đầy đủ. Thời gian gần đây, những vụ xâm hại tình dục học sinh đang xảy ra ngay trong chính trường học và xuất phát từ một số giáo viên gây tâm lý lo lắng cho phụ huynh, bố mẹ.

Về vấn đề bạo lực học đường đối với trẻ em, các đại biểu cũng chỉ ra, một số cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường và chính quyền địa phương các cấp còn hiện tượng buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, thiếu kiên quyết xử lý và xử lý chưa nghiêm, chưa kịp thời các vụ việc. Đối tượng xâm hại thể chất trẻ em trong các cơ sở giáo dục, chủ yếu là giáo viên, nhân viên trường học và chính các em học sinh bạo hành, xâm hại lẫn nhau.

 

 

Nguyên nhân tiêu và giải pháp

Thảo luận về những nguyên nhân tiêu biểu cho tình trạng xâm hại trẻ em hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, đó là do các bậc cha mẹ, gia đình, người chăm sóc trẻ thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý trẻ em, thiếu nhận thức về nguy cơ, thiếu sự quan tâm chia sẻ vấn đề giới tính với trẻ em. Từ đó, dẫn tới các em thiếu hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, về kiến thức, kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục.

Bên cạnh đó, do sự phân hóa giàu nghèo với những chênh lệch về điều kiện sống, những rạn vỡ trong gia đình và sự sói mòn những giá trị truyền thống đã dẫn tới con số trẻ em bị bỏ rơi, bị sao nhãng, bị lạm dụng và bóc lột ngày càng tăng. Trẻ em bị xâm hại thường xảy ra nhiều ở phường có nhiều dân nhập cư, phòng cho thuê, khu vực có đông người lao động nghèo và địa bàn vắng.

Ngoài ra, công tác truyền thông, giáo dục, vận động xã hội chưa bao phủ được hết các địa bàn, đối tượng; số người thực hiện được nghiệp vụ truyền thông, tư vấn còn hạn chế nên chất lượng truyền thông trực tiếp chưa cao; các sản phẩm truyền thông sản xuất với số lượng ít, chưa đến tay các gia đình... dẫn đến nhận thức, trách nhiệm, năng lực bảo vệ chăm sóc trẻ em của các cấp chính quyền, đặc biệt kỹ năng về bảo vệ trẻ em, thực hành quyền trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ còn thiếu hụt.

Đặc biệt, do tác động của phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, những thông tin độc hại không được kiểm soát lan tràn trên mạng internet... cũng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn ở trẻ em và người lớn. Đồng thời, nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế; khả năng nhận thức, phòng vệ và tự vệ của nạn nhân còn non nớt; công tác phát hiện, tố giác tội phạm hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí có cả thái độ bất hợp tác từ phía nạn nhân và gia đình nạn nhân; một số tội danh chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe tội phạm, nhiều khi không tương xứng với hành vi bạo lực cần xử lý cũng là một nguyên nhân gây nên tình trạng này.

Từ những nguyên nhân đó, các đại biểu cho rằng, chúng ta cần phải nhìn nhận rằng bảo vệ an toàn cho trẻ em trong trường học và trên môi trường mạng là vấn đề cấp bách được đặt ra và cần sự chung tay của toàn xã hội.

Tại hội thảo, Phó Trưởng Đoàn giám sát- Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình nhấn mạnh, trong thời gian qua, công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em đã được các ngành, các cấp quan tâm, chỉ đạo và có những chuyển biến tích cực. Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan hữu quan đã tăng cường nhiều giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Tuy nhiên, trên thực tế tình hình trẻ em bị xâm hại trong thời gian qua vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp.

Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân như công tác xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em chưa thực sự được quan tâm, đây đó còn tồn tại những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ bạo lực, xâm hại trẻ em; ý thức chấp hành, việc thực thi pháp luật về bảo vệ trẻ em của một bộ phận cán bộ có thẩm quyền chưa nghiêm; hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em có lúc, có nơi bị bỏ lọt, bỏ qua, chậm bị xử lý; các loại thông tin, ấn phẩm, sản phẩm độc hại, không phù hợp, đặc biệt trên môi trường mạng, thông qua con đường du lịch trong thời gian dài không được ngăn chặn, kiểm soát kịp thời và không được xử lý triệt để; gia đình, cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm bảo vệ trẻ em, chậm được bổ sung kiến thức, kỹ năng về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em....

Trước thực trạng xâm hại trẻ em nêu trên, Phó Trưởng Đoàn giám sát- Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình nhấn mạnh, bảo vệ trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách, đòi hỏi sự vào cuộc khẩn trương, mạnh mẽ và phối hợp đồng bộ của toàn thể xã hội, bao gồm các cấp, các ngành, đoàn thể, cơ quan, tổ chức hữu quan, gia đình và cá nhân và chính bản thân của trẻ em.

Bàn về các giải pháp bảo vệ trẻ em trong thời gian tới, các đại biểu nêu rõ, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về xâm hại tình dục trẻ em và hậu quả của nó. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật này phải có kế hoạch, chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp để từ đó nâng cao ý thức tự bảo vệ của trẻ trước những nguy cơ trẻ bị xâm hại. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh việc thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư.

Bên cạnh đó, cần chú trọng hình thức tư vấn, tham vấn và vận động trực tiếp đối với gia đình và cộng đồng dân cư về kỹ năng bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại. Tập trung hoạt động truyền thông - giáo dục vào những phường, xã trọng điểm, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và những nhóm đối tượng còn hạn chế trong thực hiện trách nhiệm của mình đối với trẻ em. Đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của cha mẹ và người thân nhằm xây dựng thiết chế gia đình bền vững.

Để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm xâm hại tình dục gây nên, cha mẹ cần thường xuyên để mắt, quan tâm, chia sẻ với con em mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Bên cạnh đó, khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các em chính là đối tượng có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình dục cao nhất. Vì vậy, cha mẹ cũng cần phải trang bị cho con cái biết cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành vi đồi bại. Cố gắng chia sẻ với con về giới tính, tình dục tuổi mới lớn. Vì trẻ em hiện nay dậy thì sớm và yêu sớm. Tránh bạo lực khi con có sai phạm, phải nâng đỡ, tôn trọng ý kiến của con, phải biết kiềm chế khi gặp phản ứng trước những căng thẳng khó kiểm soát của con. Cha mẹ luôn cố lắng nghe con nói, hiểu ngôn ngữ của con theo nhóm tuổi, trẻ em càng nhỏ càng khó giải thích nỗi đau. Không chủ quan giao con còn nhỏ cho người khác.

Đối với các nhà trường cần tổ chức nói chuyện chuyên đề về sức khỏe sinh sản cho học sinh thường xuyên. Thầy cô cần quan tâm những học sinh có biểu hiện bất an, không tập trung, cần lắng nghe và quan tâm đến học sinh yếu kém, ít chơi đùa cùng bạn. Thầy cô cần sẵn sàng nói chuyện, trao đổi riêng về tình bạn, tình yêu với học sinh.

 

Tháng 12: 02/12/2021

 

Bài tuyên truyền vai trò của gia đình trong thực hiện bình đẳng giới

 

* Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể xóa bỏ phân công lao động theo giới 

Phân công lao động theo giới là việc phân công các công việc, các trách nhiệm khác nhau giữa nam và nữ. Sự phân công này là do xã hội gán cho mỗi giới và được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác nên được mọi thành viên của từng cộng đồng nắm vững.

Với tư cách là một thiết chế của xã hội, gia đình là một xã hội thu nhỏ, gia đình phản ánh đầy đủ các vấn đề của xã hội, trong đó nổi bật nhất là vấn đề bất bình đẳng giới. Gia đình – pháo đài kiên cố nhất của sự bất bình đẳng nam nữ. Mọi sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đều bắt nguồn từ gia đình. Sự bất bình đẳng giới được bắt nguồn từ gia đình, được bao bọc bởi các quan hệ gia đình, tôn ti trật tự, nề nếp gia phong… nên bất bình đẳng giới diễn ra êm ái, dễ dàng và ít gặp sự phản kháng mãnh liệt từ phụ nữ. Địa vị của phụ nữ tác động tới sự phát triển nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ. Nếu địa vị của người phụ nữ thấp kém thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến nhận thức, sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của con cái họ mà còn ảnh hưởng xấu đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thiên chức của phụ nữ là mang thai, sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, do nhận thức về vai trò giới và giới tính còn hạn chế nên nhiều người cho rằng công việc nội trợ cũng là thiên chức của phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ luôn phải gánh vác công việc trong gia đình như: Chăm sóc con nhỏ, người già, người đau ốm; giặt giũ, đi chợ, nấu ăn; dọn dẹp nhà cửa… Chính những công việc này đã chiếm rất nhiều thời gian, sức lực của phụ nữ. Do đó, cơ hội tham gia vào thị trường lao động của phụ nữ rất thấp. Điều này dẫn đến thực tế là phụ nữ không trực tiếp lao động tạo thu nhập cho gia đình. Hệ quả là địa vị thấp kém và không có tiếng nói ngay trong gia đình của mình. Những phụ nữ được tham gia vào thị trường lao động thì tình hình cũng ít được thay đổi. Họ luôn phải đối mặt với áp lực công việc ngoài xã hội và công việc gia đình. Việc kết hợp hài hòa giữa chăm sóc gia đình, nuôi dạy con với nâng cao địa vị xã hội – nghề nghiệp là khó khăn lớn mà phụ nữ ngày nay phải đối mặt.

Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân công lao động theo giới. Khi trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng và sở thích của mình, trực tiếp tạo thu nhập. Từ đó, phụ nữ có khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, có tiếng nói trong gia đình. Điều đó, mang lại cho phụ nữ sự tự tin và địa vị của họ trong gia đình được nâng cao.

Như vậy, xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới là tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ, phát huy khả năng của phụ nữ cho sự phát triển kinh tế gia đình, nâng cao địa vị của phụ nữ. Gia đình có vai trò quyết định trong việc xóa bỏ tập quán phân công lao động theo giới, góp phần xóa bỏ phân công lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện bình đẳng giới một cách hiệu quả.

* Gia đình có thể quyết định đầu tư các nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giữa nam và nữ

Con người đưa ra hầu hết những quyết định cơ bản của cuộc sống trong phạm vi gia đình, trong đó có việc đầu tư cho tương lai. Nguồn lực được phân bổ như thế nào giữa con trai và con gái, giữa vợ và chồng, mỗi người tùy thuộc vào giới tính của mình được trao quyền đến đâu, kỳ vọng của cha mẹ đối với con trai, con gái, của vợ, chồng đối với nhau có khác nhau hay không… Tất cả những điều này sẽ tạo ra và khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự phân biệt giới. Định kiến giới đã dẫn đến người vợ và trẻ em gái ít có cơ hội được đầu tư cho sự phát triển con người hơn. Đa số các gia đình cho rằng, đầu tư cho người vợ và trẻ em gái thu được ít lợi suất cho gia đình hơn là đầu tư cho người chồng và trẻ em trai. Do vậy, tình trạng thất học, không được chăm sóc sức khỏe ở trẻ em gái cao hơn so với trẻ em trai. Trong quan hệ vợ chồng cũng tương tự, người vợ ít được đầu tư cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe hơn so với người chồng. Gia đình là nơi đầu tiên xóa bỏ định kiến giới, làm thay đổi các quyết định đầu tư bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc đầu tư các nguồn lực của gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái sẽ tạo cơ hội cho nam giới và nữ giới cùng được học tập nâng cao trình độ (văn hóa, nghề nghiệp), tiếp cận thông tin và khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe. Từ đó, tạo điều kiện cho nữ giới có đủ khả năng về tri thức, sức khỏe tham gia thị trường lao động, kể cả thị trường lao động đòi hỏi trình độ cao.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu xã hội học cho thấy, người vợ có học vấn cao và hiểu biết xã hội rộng sẽ tác động tốt đến việc nuôi dạy con. Học vấn của người mẹ sẽ làm cải thiện chế độ dinh dưỡng của con cái, thông qua chất lượng chăm sóc mà người mẹ dành cho con. Nghiên cứu các nước đang phát triển cho thấy, mối quan hệ ngược chiều mạnh giữa số năm đi học bình quân của người mẹ với tỷ lệ tử vong của trẻ. Điều tra về nhân khẩu và sức khỏe mới nhất tại hơn 40 nước đang phát triển cho thấy tử vong của trẻ dưới 5 tuổi thấp hơn tại các gia đình mà người mẹ có đi học tiểu học so với gia đình mà người mẹ không đi học, và còn thấp hơn nữa ở các gia đình mà người mẹ học đến trung học. Phụ nữ có học vấn cao hơn dường như sử dụng các dịch vụ chăm sóc con cái chính quy và đưa con đi tiêm chủng đầy đủ(1). Các phương pháp giáo dục tiên tiến trên thế giới đều cho thấy trình độ của người mẹ quyết định đến sự thành công của con trong học vấn và sự nghiệp. Những người mẹ “thông minh” sẽ dạy con với những phương pháp thông minh nhất và kết quả là con của họ cũng thành những người “thông minh”. Bên cạnh đó, vai trò cá nhân của người mẹ trong những năm đầu đời của đứa trẻ là con đường chính để bất bình đẳng giới có thể làm ảnh hưởng tới các thế hệ sau. Dinh dưỡng và sức khỏe của người mẹ kém có thể có những tác hại lớn cho việc mang thai và khả năng nuôi dưỡng con của người mẹ. Sự thất học và phụ thuộc vào người khác của người mẹ sẽ lấy đi sự hiểu biết và sự tự tin, làm suy giảm khả năng nuôi dưỡng và bảo vệ con của người mẹ. Đối với đứa trẻ sống trong đói nghèo ít có khả năng tiếp cận tới sự chăm sóc và phòng bệnh chính quy, thì người mẹ trở thành người bảo vệ đầu tiên và duy nhất. Như vậy, sức khỏe, học vấn, khả năng quyết định của người mẹ, nhận thức của người mẹ về giới… có vai trò quan trọng đối với việc sinh con (số con, khoảng cách giữa các lần sinh), cách nuôi dạy con, nhận thức của các thành viên gia đình về giới và bình đẳng giới… Do vậy, phân bổ nguồn lực trên cơ sở bình đẳng giới góp phần đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình. Khi hiểu biết, học vấn, sức khỏe của phụ nữ được nâng cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thành viên gia đình, đặc biệt là con cái. 

Như vậy, gia đình phân bổ các nguồn lực đầu tư cho nam giới và nữ giới như nhau chính là biện pháp đảm bảo công bằng giới. Công bằng giới sẽ tiến tới bình đẳng giới. Tuy nhiên, quyết định đầu tư của các gia đình bình đẳng giữa nam và nữ lại được đặt trong khuôn khổ cộng đồng, phản ánh tác động của những động cơ khuyến khích mà thể chế và chính sách đã xác lập. Nền kinh tế quyết định rất nhiều cơ hội mà con người có thể nâng cao mức sống của mình, do đó chính sách và sự phát triển kinh tế có tác động mạnh mẽ đến bình đẳng giới. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, thì cha mẹ sẽ phải cân nhắc xem đầu tư cho con trai hay cho con gái đem lại hiệu quả kinh tế hơn; con trai hay con gái có cơ hội tham gia vào quá trình lao động trình độ cao để tăng thu nhập hơn… Do vậy, gia đình có thể đưa ra các quyết định đầu tư nguồn lực bình đẳng giữa nam và nữ cần phải có nhận thức đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược và vì lợi ích chiến lược của cá nhân, gia đình và xã hội.

* Gia đình không có bạo lực – tiền đề quan trọng tiến tới bình đẳng giới 

“Gần như tất cả hành động bạo lực ngoài chiến tranh có thể được coi liên quan tới giới”(2). Vai trò giới và những kỳ vọng về giới tạo ra sự tương tác và hành vi dẫn đến bạo lực. Sự kỳ vọng vào vai trò trụ cột của đàn ông trong việc đảm bảo cuộc sống của các thành viên gia đình và là người quyết định các vấn đề trong gia đình đã gây áp lực lớn cho người đàn ông. Khi nền kinh tế chuyển đổi hoặc có sự thay đổi trực tiếp trong công việc dẫn đến không còn khả năng kiếm tiền thì nhiều người cảm thấy bất lực, rơi vào tình trạng nghiện rượu, hành hạ vợ con, ly hôn… Đồng thời, quan niệm về vai trò là người “nối dõi” của nam giới ở các nước phương Đông đã dẫn đến tình trạng “trọng nam, khinh nữ” tồn tại dai dẳng. Điều đó dẫn đến hệ quả là lựa chọn giới tính thai nhi; phân biệt đối xử giữa con trai, con gái; hành hạ, ngược đãi con gái; con gái không được đi học… Trong bối cảnh mà nạn bạo lực gia đình diễn ra trên toàn cầu mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ thì có thể thấy gia đình là nơi tập trung chủ yếu nhất của sự áp bức đối với phụ nữ. Do vậy, hướng tới gia đình không có bạo lực là một trong những mục tiêu của bình đẳng giới. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi thành viên gia đình phải tôn trọng các quyền cá nhân của các thành viên khác đã được pháp luật công nhận. Mặt khác, mỗi thành viên gia đình phải được đối xử công bằng. Mọi hành vi phân biệt dựa trên cơ sở giới đều được xóa bỏ. 

Vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước ta đánh giá là có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Do đó, bình đẳng giới trở thành trung tâm của phát triển, là một mục tiêu phát triển, là một yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà nước có hiệu quả. Thiên vị và bất bình đẳng giới gây tổn hại đến thế hệ tương lai và làm cho sự chênh lệch giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội trở nên dai dẳng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cá nhân và của đất nước. Theo các kết quả nghiên cứu, ba yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến bình đẳng giới là: Các thể chế (gồm các chuẩn mực xã hội, luật pháp và thị trường); gia đình; nền kinh tế. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố gia đình tác động trực tiếp và thường xuyên nhất. Vì vậy, gia đình là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc cách mạng về giới. Con đường nhận thức và hành động vì sự bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Bất bình đẳng giới là nguồn gốc cơ bản về lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân dần trở thành xung đột và kéo theo hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và gia đình. Do vậy, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là giải phóng phụ nữ - giải phóng một nửa của xã hội và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới. Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.

 

Ngày 05/12/2021 và 25/12/2021

 

Bài tuyên truyền xâm hại tình dục trẻ em

 

Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng và số vụ theo từng năm. Trẻ em bị xâm hại tình dục không chỉ là trẻ em nữ mà còn cả các em nam. Người xâm hại tình dục không chỉ là người lạ mà phần nhiều là những người có quan hệ gần gũi, thân thiết với nạn nhân. Hành vi bạo lực gia đình, bạo hành với trẻ em thường xảy ra giữa bố mẹ với con chưa thành niên. Những người bảo hành thường là những người có học thức thấp, trình độ nhận thức hiểu biết pháp luật hạn chế, nghiện ngập.

Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em thường là dâm ô, giao cấu, hiếp dâm. Các hành vi bạo hành với trẻ em thường diễn ra trong những gia đình không có hạnh phúc, bố mẹ nghiện ngập hoặc trong những gia đình có hôn nhân phức tạp, sống chung với dì, dượng con riêng, con chung, thiếu sự quan tâm, giáo dục của bố mẹ...

Ở các địa phương có du lịch phát triển như một số tỉnh ven biển, Sa Pa, Đà Lạt... là những nơi tội phạm xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn, các hành vi như mua dâm người chưa thành niên, dâm ô với trẻ em, mua bán người diễn ra phổ biến hơn... Cùng với sự phát triển du lịch, giao lưu văn hóa thì đối tượng phạm tội là người nước ngoài đang có xu hướng gia tăng.

Những trẻ em bị bạo hành, xâm hại thường là những em có nhược điểm về thể chất, ít có khả năng tự bảo vệ bản thân. Những trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt thiếu cha phải thiếu mẹ, cha mẹ thiếu quan tâm chăm sóc hoặc trong những gia đình không hạnh phúc, cha mẹ là người nghiện ngập, tù tội... Hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt, thiếu sự bảo vệ, chăm sóc của cha mẹ, các em chưa nhận thức, ý thức được mối nguy hiểm với bản thân, thêm vào đó các đối tượng thường lợi dụng những hoàn cảnh đặc biệt, yếu thế của các em để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, phần lớn các vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, bạo hành trẻ em thì đối tượng phạm tội đều là đối tượng có quan hệ quen biết, thậm chí thân thiết, là người thân, người nhà với nạn nhân có nhiều cơ hội tiếp xúc, tiếp cận với nạn nhân, nhân cơ hội, thời cơ thuận lợi để thực hiện hành vi phạm tội. Những đối tượng bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em một phần là do bệnh lý về tình dục, phần còn lại là do lệch lạc về nhân cách, đạo đức, lối sống dẫn việc thực hiện hành vi phạm tội.

Những đứa trẻ bị bảo hành, xâm hại tình dục thường bị tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe, tâm lý, thậm chí thiệt mạng. Trong số các nạn nhân bị xâm hại về tình dục thì rất nhiều em bị ảnh hưởng lâu dài về sức khỏe, tâm lý, hạnh phúc. Các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội rất dễ dẫn đến khả năng sát hại nạn nhân để bịt đầu mối hoặc đe dọa uy hiếp, khủng bố tinh thần nạn nhân để che giấu hành vi phạm tội. Bởi vậy hậu quả của hành vi xâm hại tình dục không chỉ xảy ra tức thời mà còn là hậu quả lâu dài gây đau đớn, thương tật về thể xác, đe dọa về tính mạng, gây hoang mang, bất bình trong nhân dân. Nhiều trẻ em bị xâm hại tình dục dẫn đến tự sát, nhiễm bệnh về tình dục, HIV, bị trầm cảm gây đau đớn không chỉ đối với nạn nhân mà cả gia đình nạn nhân rất lâu dài.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trẻ em bị bạo hành, xâm hại tình dục

Thứ nhất, do cha mẹ, người giám hộ, người có nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em không thực hiện hết trách nhiệm của mình.  

Theo quy định của pháp luật thì cha mẹ có nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tuy nhiên nhiều trường hợp chính cha mẹ là người vi phạm nghĩa vụ này, trở thành người bạo hành thậm chí xâm hại tình dục đối với trẻ em. Ngoài ra khi cha mẹ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình do những nguyên nhân khách quan (như bị tù tội, nghiện ngập, vợ chồng ly hôn, công việc trở ngại...). Khi cha mẹ không có khả năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thì các cháu được chuyển cho ông bà, anh chị, cô dì chú bác nhưng những người này thường không thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình dẫn đến việc các cháu rơi vào tình huống sơ hở, tự ti, tiêu cực hoặc vì chưa có nhiều kinh nghiệm sống, chưa có khả năng tự bảo vệ bản thân nên rất dễ trở thành nạn nhân của hành vi bạo hành, xâm hại tình dục. Nhiều trường hợp chính cô dì chú bác, anh chị em lại là những đối tượng xâm hại tình dục các em khi cha mẹ thiếu quan tâm hoặc không thực hiện hết trách nhiệm, bổn phận của mình.

Thứ hai, trẻ em sinh ra trong các gia đình khó khăn, cha mẹ nghèo khó, tù tội, bệnh tật hoặc nghiện ngập, sa đọa, nhân cách thấp kém, nhận thức về trách nhiệm với trẻ em, về pháp luật hạn chế hoặc không có khả năng, điều kiện để bảo vệ chăm lo, giáo dục các cháu. Các cháu bị phân biệt đối xử, bị bắt nạt, bạo hành, xâm hại tình dục. Theo thống kê cho thấy phần lớn những đứa trẻ bị bảo hành, xâm hại tình dục là sinh ra lớn lên trong gia đình nghèo, khu vực nghèo, gia đình có hoàn cảnh éo le, khó khăn, cha mẹ không có khả năng bảo vệ. Sự phân hóa xã hội, phân biệt giàu nghèo cũng là nguyên nhân dẫn đến những đứa trẻ con nhà nghèo, trong hoàn cảnh éo le có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục lớn hơn.

Thứ ba, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cũng như bảo vệ, hỗ trợ trẻ em ở nhiều nơi chưa đạt hiệu quả tốt. Các chính sách và pháp luật về bảo vệ trẻ em chưa được tuyên truyền thường xuyên, kịp thời đến với quần chúng nhân dân.

Nhận thức của các bậc phụ huynh cũng như của trẻ em về bảo vệ trẻ em chưa tốt. Công tác bảo vệ, hỗ trợ trẻ em chưa được làm tốt ở nhiều địa phương. Các giải pháp phòng ngừa về bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em chưa được triển khai đồng bộ đầy đủ đến cấp cơ sở. Thông thường thì trẻ em bị bạo hành, xâm hại tình dục một thời gian dài, nhiều năm mới bị phát hiện, khi bị phát hiện thì cơ quan chức năng mới vào cuộc xử lý. Còn trước khi sự việc xảy ra thì sự can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ, ngăn chặn của chính quyền địa phương cũng như các cơ quan tổ chức đoàn thể bảo vệ trẻ em chưa nhiều, chưa kịp thời. Còn thiếu những cán bộ chuyên trách về bảo vệ trẻ em, chưa đảm bảo được đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ tham gia hoạt động này dẫn đến nhân lực còn hạn chế cả về chuyên môn lẫn tính chuyên nghiệp.

Thứ tư, hành vi bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em rất khó phát hiện, khó thu thập chứng cứ để xử lý. Phần lớn đối tượng bạo hành, xâm hại đến giúp trẻ em là những người thân quen với trẻ em, có mối quan hệ tình cảm, huyết thống nên các em thường rất sợ hoặc ngại tố cáo. Sự lệ thuộc về kinh tế, xã hội, giáo dục, về huyết thống giữa đối tượng thực hiện hành vi phạm tội bạo hành, xâm hại tình dục đối với nạn nhân nên nạn nhân thường không muốn tố cáo, cam chịu hoặc sợ hãi. Khi phát hiện ra sự việc thì thường gia đình lựa chọn phương pháp nào giải quyết nội bộ không đưa ra pháp luật. Nhiều trẻ em bị xâm hại tình dục (Bị dâm ô hoặc bị hiếp dâm, giao cấu khi tuổi còn nhỏ), bị bạo hành nhưng không biết là mình trở thành nạn nhân nên cũng không tố cáo. Nhiều đối tượng xâm hại tình dục trẻ em, bạo hành trẻ em lại là những người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục các em nên đã che giấu hành vi vi phạm pháp luật của mình. Xã hội càng hiện đại thì mối quan hệ giữa các gia đình càng thiếu gắn bó, nhiều người cho rằng đây là chuyện riêng tư của gia đình họ nên không quan tâm, không can thiệp kịp thời. Những vụ việc bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em thường bị phát hiện muộn nên việc thu thập các dấu vết, chứng cứ để xử lý gặp nhiều khó khăn.

Thứ năm, đạo đức xã hội xuống cấp, mặt trái của kinh tế thị trường, thời điểm xã hội công nghệ phát triển, việc tiếp cận với văn hóa đồi trụy, bạo lực, khiêu dâm là rất dễ dàng, phổ biến đối với trẻ em. Cuộc sống hiện đại, tự do khiến các cặp đôi còn trẻ ly hôn rất nhiều, sau cuộc ly hôn thì trẻ em phải sống trong những gia đình “hỗn tạp”, với cha, dượng mẹ kế, sống trong gia đình có nhiều phức tạp có nhiều loại con khác nhau dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong gia đình, trong những gia đình đó những ông bố, ba mẹ thường có học thức, nhân cách thấp kém dẫn đến lạm dụng tình dục đối với con của vợ, chồng mình. Nhận thức pháp luật thấp kém, đạo đức suy thoái của một bộ phận người thanh niên dẫn đến nguy cơ bạo hành xâm hại tình dục trẻ em có nguy cơ gia tăng.

Thứ sáu, Việc giáo dục kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ em còn chưa tốt, đặc biệt là trẻ em trong những hoàn cảnh đặc biệt dẫn đến việc trẻ em hạn chế khả năng tự bảo vệ bản thân, tự ti, thiếu kiến thức cần thiết để bảo vệ mình trước hành vi bạo hành, xâm hại tình dục ở chính những người thân, xung quanh mình. Với những trẻ em lang thang, khuyết tật, thiểu năng trí tuệ thì nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục càng cao do thiếu sự quản lý, bảo vệ của gia đình cũng như của cơ quan chức năng.

Một số giải pháp phòng ngừa hiện tượng bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em

Một là, cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để xây dựng hệ thống các cơ quan. Cần quy định rõ ràng các khái niệm về xâm hại tình dục trẻ em, những biểu hiện của hành vi xâm hại tình dục trẻ em, thẩm quyền phủ tục giải quyết, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ trẻ em. Cần có cơ chế phối hợp, có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp nhịp nhàng, rõ ràng, gắn trách nhiệm với các cơ quan tổ chức bảo vệ trẻ em: ví dụ trách nhiệm thống kê, rà soát trẻ em có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục trên từng địa bàn; tổ chức các hoạt động hỗ trợ, can thiệp phòng ngừa sớm trước khi sự việc có thể xảy ra; giao cho các cán bộ chuyên trách trong việc phát hiện, phối hợp xử lý với cơ quan chức năng; Cần phải có những cán bộ chuyên trách bảo vệ trẻ em, những cán bộ này được hưởng quyền lợi, đảm bảo đời sống, kinh tế, có trình độ chuyên môn, có đạo đức phải trách nhiệm để thực hiện công việc có hiệu quả...

Hai là, cần xác định rõ những đối tượng có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục trên từng địa bàn để đưa vào diện theo dõi, phát hiện nhầm hỗ trợ can thiệp và xử lý kịp thời.

Cần có sự phân loại trẻ em trên từng địa phương để xác định nhóm trẻ em có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại. Nhóm những trẻ em khuyết tật, tự kỉ, thiểu năng trí tuệ, những trẻ em bị bỏ rơi lang thang cơ nhỡ, những em sống trong những gia đình không có hạnh phúc, những gia đình phức tạp, cha mẹ nghiện ngập, nghèo khó cần phải được quan tâm, can thiệp, giúp đỡ kịp thời tránh nguy cơ có thể xảy ra bạo hành, xâm hại tình dục đối với nhóm trẻ em yếu thế này.

Cần tăng cường công tác giáo dục kiến thức về quyền trẻ em, các kỹ năng, kiến thức về bảo vệ trẻ em, giáo dục kỹ năng sống và có sự can thiệp hỗ trợ kịp thời đối với những trẻ em yếu thế có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục cao trong xã hội. Tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em nói chung và những trẻ em có nguy cơ bị bảo hành xâm hại tình dục cao nói riêng.

Ba  là, nâng cao trách nhiệm, vai trò của cán bộ cơ sở cũng như chính quyền địa phương trong việc can thiệp, hỗ trợ, bảo vệ trẻ em khi bị bạo hành, xâm hại tình dục.

Chính quyền địa phương cần có những giải pháp can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, éo le có trẻ em để đảm bảo điều kiện về vật chất, tinh thần cho các bậc cha, mẹ, người giám hộ, những người đang có trọng trách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, nhận thức của họ đối với vấn đề bảo vệ trẻ em, khơi gợi trong họ tình yêu thương, đạo đức con người và cách giáo dục con một cách khoa học, tôn trọng, đúng pháp luật để giảm nguy cơ bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em trong nhóm những đối tượng này. Kịp thời phát hiện, can thiệp đối với những trường hợp cha mẹ, người giám hộ, thầy cô giáo có biểu hiện bệnh lý về tình dục, nhu cầu tình dục cao bất thường hoặc có những người biểu hiện bệnh lý dẫn đến nguy cơ bạo hành, xâm hại tình dục đối với trẻ em cao. Kịp thời can thiệp, các trẻ em khỏi những đối tượng có nguy cơ cao về bảo hành, xâm hại tình dục để tránh tình trạng các em phải sống trong môi trường, tình huống nguy hiểm.

Bốn là, xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc bảo vệ cho em. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với việc bảo vệ trẻ em.

Cần phải nêu cao trách nhiệm, vai trò của cha, mẹ, người thân, cán bộ cơ sở trong việc phát hiện, can thiệp, xử lý, bảo vệ trẻ em. Kịp thời phát hiện ra những hiện tượng có nguy cơ bạo hành, xâm hại trẻ em để có những giải pháp kịp thời tránh trường hợp vụ việc xảy ra nhiều lần, thậm chí nhiều năm mới bị phát hiện xử lý, hậu quả đối với trẻ em trở nên nghiêm trọng, khó có thể khắc phục được.

Năm là, tăng cường giáo dục kỹ năng sống, khả năng nhận biết và tự bảo vệ của trẻ em qua các chương trình giáo dục phổ thông.

Cần bổ sung, hoàn thiện chương trình giáo dục về kỹ năng sống trong nhà trường đặc biệt là kỹ năng thoát hiểm trong các tình huống bị bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em. Cần có lộ trình, phương pháp phù hợp để cho em hiểu biết được quyền của mình, có kỹ năng thoát hiểm trong một số tình huống có nguy cơ bị bạo hành, xâm hại tình dục. Tạo ra những cơ chế, giải pháp để cho trẻ em có cơ hội bày tỏ, tìm kiếm cơ quan, tổ chức có chức năng bảo vệ trẻ em để can thiệp, hỗ trợ kịp thời. Nâng cao trách nhiệm cũng như vai trò của giáo viên trong việc phát hiện tâm lý bất thường, nguy cơ bị bảo hành xâm hại của cho em để kịp thời can thiệp, hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan chức năng để sớm giải quyết.

Sáu là, củng cố, tăng cường lực lượng cán bộ bảo vệ trẻ em có chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ tốt, có đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Cần bổ sung các cán bộ chuyên trách, có chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức kỹ năng tốt trong việc giải quyết tin báo tố giác tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm xâm hại tình dục trẻ em để đảm bảo việc phát hiện, xử lý kịp thời, đúng pháp luật, giảm thiểu đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra đối với trẻ em.

Bảy là, quản lý tốt những đối tượng có nguy cơ cao về bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em. 

Những nguy cơ tấn công xâm hại tình dục trẻ em từ những đối tượng suy đồi về đạo đức cũng như có bệnh lý về tình dục. Cần sàng lọc, phát hiện ra những đối tượng có bệnh lý về tình dục, có biểu hiện tâm lý, bệnh lý bất thường, có nguy cơ mất kiểm soát về hành vi dẫn đến khả năng bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em để có những can thiệp kịp thời. Với những đối tượng bệnh lý về tình dục thì cần phải bắt buộc chữa bệnh. Về lâu dài có thể bổ sung biện pháp hành chính là “thiến hóa học” để giảm thiểu những ham muốn bản năng tình dục ở những đối tượng này. Những đối tượng tâm thần, nghiện ngập, không có khả năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc có nguy cơ đe dọa đến sự an toàn của trẻ em thì cần phải có can thiệp kịp thời, giao cho em cho những người khác, cơ quan tổ chức khác tốt hơn để đảm bảo an toàn cho trẻ em.

Cần phải kiểm soát tốt các vật phẩm, ấn phẩm đồi trụy để tránh việc trẻ em bị dụ dỗ, tiếp cận với văn hóa phẩm đồi trụy dẫn đến lệch lạc trong việc phát triển và hình thành nhân cách, không nhận thức được việc mình đang bị lợi dụng, xâm hại tình dục. Cũng như kiểm soát được những đối tượng có biểu hiện bất thường về tâm lý, nhân cách hoặc quản lý, thường xuyên tiếp cận với những văn hóa phẩm đồi trụy dẫn đến xa đọa về nhân cách, lệch lạc về lối sống.

Cần tạo điều kiện công ăn việc làm, thu nhập cho các bậc cha mẹ phụ huynh trong những gia đình nghèo khó mà đang phải nuôi con nhỏ. Cần xử lý, can thiệp kịp thời đối với những người nghiện ma túy, nghiện rượu có biểu hiện bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em.

Thực hiện đồng bộ, đầy đủ các giải pháp từ cơ chế, chính sách, pháp luật, nhân lực, nhận thức, kỹ năng và các giải pháp về kĩ thuật thì mới tạo ra một cơ chế đồng bộ, tạo môi trường lành mạnh, giảm bớt nguy cơ trẻ em bị bạo hành, xâm hại, tăng cường cơ chế giải pháp để xử lý kịp thời đối với các đối tượng bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em.

Bình chọn

Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?

Văn bản mới
Xem thêm
Thống kê truy cập

Lượt truy cập: 59795

Trực tuyến: 55

Hôm nay: 160